Cổ tích mới về “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện”

Thời Hán học, xã Cổ Am, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) và làng Hành Thiện Xuân Hồng, Xuân Trường (Nam Định) sáng danh là làng khoa bảng “Đệ nhất đất Việt” về số người đỗ đạt cao trong các kỳ thi hương, thi hội; là miền quê giàu truyền thống yêu nước, cách mạng; là nơi “xuất khẩu” nhân tài cho Tổ quốc; trong đó có nhiều người giữ chức vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước, các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành khoa học xã hội nhân văn. Trong mạch chảy truyền thống, “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện” hôm nay lại viết thêm nhiều “sự tích” về sự nghiệp khuyến tài, xây dựng và phát triển bộ mặt nông thôn khởi sắc thời đổi mới.

article15891

Đình Phần- công trình kiến trúc cổ của Cổ Am

“Một thỏi vàng không bằng nang chữ”

Mặt trời đứng ngọn tre, thế nhưng tại thư viện xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng vẫn nươm nượp người dân đến đọc sách, báo. Phòng đọc nhà cấp 4, chừng 50m2 với 200 ghế ngồi, không còn một chỗ trống. Tất bật phục vụ người đọc, chị thủ thư Đào Thị Nguyên niềm nở với chúng tôi: “Đọc sách là một nét “cá tính” của người Cổ Am. Thư viện xã hơn 40 năm qua là địa chỉ sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân”. Hỏi chuyện một bé trai, học lớp 4, về lịch sử, mảnh đất, con người, danh nhân, di sản văn hóa ở Cổ Am, em kể dõng dạc, tường tận, khá chi tiết. Thấy chúng tôi ngạc nhiên, cụ lão tuổi ngoài 80, quay sang tâm sự: con trẻ ở đất này, từ nhỏ được giáo dục thông tỏ về truyền thống văn hiến của quê hương, dân tộc. “Ngọc bất trúc bất thành khí. Nhân bất học bất tri lý”. Đó là chính sách khuyến học, khuyến tài vì sự nghiệp trăm năm trồng người” ở đất Cổ Am này.

“Hải Dương tứ hổ, nhất Cổ vi tiên “ (Bốn con hổ lớn ở Hải Dương, chỉ có một Cổ Am đứng đầu). Xã Cổ Am xưa có tên là Úm Mạt thuộc tổng Đông Am, Hải Dương. 800 năm lịch sử sáng nghiệp, mảnh đất Cổ Am được biết đến “Cổ Am tiếng nhất xứ Đông” về truyền thống đất hiếu học, làng khoa bảng. Tọa lạc trên vùng hạ lưu sông Hóa, cách biển chừng vài dặm đường chim bay, đất và người Cổ Am tự thưở dựng ấp, lập thôn luôn luôn phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Đồng chua, nước mặn, đất chật, người đông, ấy cũng là cái duyên cơ mà người dân nơi đây, ngoài nghiệp trồng lúa còn có một thứ nghề: “Nghề học”. Đất nghèo sinh chí học. Từ thế kỷ 15. Cổ Am đã có hàng chục sĩ tử theo học tại Quốc Tử Giám, Chiều Văn Cát, Tứ Lâm cục... Nhà nho Trần Công Huân là người đầu tiên của làng đỗ Tiến sĩ khoa thi Quý Sửu (1733), nổi tiếng về tài thi phú, được người đương thời mệnh danh là một trong “Ngũ hỗ Tràng Am”. Cũng tại miền quê “linh địa này” Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã về đây ẩn cư và mở lớp học tại chùa Mét (di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia), đào tạo nhiều học trò nổi tiếng như: Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dư, Nguyễn Quyện, Lương Hữu Khánh... Đến thế kỷ 19, đất Cổ Am lại “cung cấp” cho đất nước một thế hệ hiền tài được mệnh danh là “Tứ Kiệt xứ Đông” (đó là” Nhất Đội, nhì Huy, tam kỳ, tứ Vượng). Sau Cách mạng Tháng 8-1945 đến nay, xã Cổ Am, có hơn 50 người được phong tặng học hàm giáo sư, học vị tiến sĩ và hàng trăm cử nhân, kỹ sư. Bên cạnh đó, Cổ Am còn được biết đến là vùng đất giàu truyền thống yêu nước cách mạng, chi bộ xã Cổ Am là chi bộ đầu tiên của huyện Vĩnh Bảo được thành lập; cũng là xã đầu tiên của huyện được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” thời kỳ chống Mỹ. Nâm 1946, Đảng bộ và nhân dân xã Cổ Am vinh dự được Bác Hồ tặng thư khen và ảnh Bác về thành tích “diệt giặc đói, giặc dốt”. Trong các cuộc kháng chiến vệ quốc, có hàng trăm lượt người con quê hương lên đường bảo vệ Tổ quốc, trong đó có hơn 200 người là liệt sĩ.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Cổ Am chưa phải là xã mạnh về kinh tế, chưa thật nhiều ngôi nhà cao tầng, đời sống của bà con nông dân chủ yếu vẫn “trông vào cây lúa”. Nhưng, sự “giàu có” với nơi đây, quả như cách dẫn dụ của ông Trần Văn Hót, gia đình được cả vùng biết tiếng có nhiều con đỗ đạt: “Một thỏi vàng không bằng nang chữ. Dân Cổ Am chúng tôi thà bớt ăn, bớt mặc, thà cứ nhà tranh, vách đất, chứ nhất định không thể để cho con em thiếu chữ, thất học!”. Được biết hơn 10 năm nuôi các con học đại học “cơ nghiệp” của gia đình ông Hót chỉ là mấy sào ruộng. Cá chuối đắm đuối vì con. Thế là, người ở nhà cùng “đồng hành” với người đi học. Vợ chồng ông Hót động viên nhau, bươm chải lên thành phố làm mọi thứ nghề tứ giúp việc quán ăn, xe thồ, phụ xây, bán hàng rong để có kinh phí cấp cho con ăn học. Đến nay, các con ông đều tốt nghiệp các trường đại học Bách khoa Hà Nội, Học viên Ngân hàng, Đại học Giao thông vận tải, có công việc và thu nhập ổn định. Đưa có chúng tôi xem những giấy khen và ảnh các con ông xúng xính mũ áo cử nhân, ông Hót cười hềnh hệch: “Ôi dào, ở đất này, gia đình nghèo có con cái vào tất đại học như nhà tôi... đầy ra đấy!”.

Hai hôm lưu lại Cổ Am, đến thăm các xóm Lê Lợi, Minh Khai, Thuận Hòa, Gia Cát..., chuyện một nhà có nhiều con học đại học ở xã đúng là “đầy ra đấy!”. Gia đình ông Lực xóm Lê Lợi cũng có 3 người con đỗ đạt. Nhà bà Én ở xóm Thuận Hòa rất nghèo, hàng ngày bà bán rau ở chợ, chồng làm phụ hồ, nhưng hai người con trai đều học Đại học Bách khoa Hà Nội. Nhờ đầu tư vào “nghề học” mà người dân nơi đây đã đưa cái tên Cổ Am vượt qua khỏi lũy tre làng, rạng danh khắp vùng miền Tổ Quốc. Đồng chí Đào Nguyên Cự, Chủ tịch UBND xã cho biết: “Năm 1994, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Cổ Am lần thứ 25 đã xác định: học là một nghề; đẩy mạnh sự nghiệp khuyến học, khuyến tài đến từng thôn xóm, dòng họ, toàn dân tích cực tham gia thực hiện. Hội nghị khuyến học của xã được thành lập năm 1993 cón sớm hơn hội khuyến học Việt Nam (1996), hiện có tổnh số quỹ gầy 250 triệu đồng; hàng năm, trao thưởng cho các em học sinh giỏi cấp tỉnh, huyện, những em đỗ điểm cao trong các kỳ thi đại học, cao đẳng. Bên cạnh đó, hơn 20 dòng họ và các khu dân cư cũng đua nhau làm khuyến học. Các dòng học lớn như Đào Trọng, họ Đắc, họ Trần, họ Trịnh, họ Nguyễn, họ Bùi... Mỗi dịp giỗ tổ họ, đều tổ chức trang trọng lễ dâng hương, tuyên dương khen thưởng con cháu có thành tích xuất sắc trong học tập. Chỉ riêng 10 năm lại đây, cả xã có gần 400 em đã và đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trong nước. Năm đỗ cao có khoảng 60 em trúng tuyển đại học, cao đẳng, có nhiều con em học sinh Cổ Am đoạt giải quốc tế: Trần Trọng Đan giành Huy chương bạc kỳ thi Toán quốc tế (tổ chức tại Mehicô tháng 8-2005); Đào Thị Lan Phương giành Huy chương Vàng môn Pháp ngữ khối ASEAN (tại Xin-ga-po năm 2005); Đào Vĩnh Ninh giành Huy hương Bạc kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế và rất nhiều em đoạt giải cao kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia, thành phố và huyện.

Rạng danh "Đệ Nhất đất Việt"

Nếu xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) sáng danh "Cổ Am tiếng nhất xứ Đông) về truyền thống đất học, thì làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường (Nam Định) là quê hương của cố Tổng Bí thư Trường Chinh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, của cách mạng Việt Nam, là vùng đất "trai học hành, gái canh cửi" được vua Tự Đức năm thứ 16 sắc phong 4 chữ "Mỹ tục khả phong". Đó là minh chứng sinh động, chân thực về truyền thống thượng võ, trọng văn của dải đất "lý ngư" (hình cá chép) vượt vũ môn hóa rồng trở thành "Lý ngư địa xưởng nhân văn úy/ Kim biến thiên lai mỷ tục tồn" (đất hình cá chép nhân văn sản sinh ra nhiều người làm quan. Dù thời thế dẫu có đổi thay song mỹ tục đẹp mãi còn).

Trong lịch sử sáng nghiệp, lập ấp và phát triển, Hành Thiện luôn song hành với "thương hiệu" làng khoa bảng. "Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện". Thời Nho học, cùng với Cổ Am, làng Hành Thiện được xếp "Đệ Nhất đất Việt" về số người đỗ đạt cao trong các kỳ thi Hương thi Hội, thi Đình. Tại các khoa thi trong các triều phong kiến, làng có 7 người đỗ đại học (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Người đỗ cao nhất là cụ Đặng Xuân Bảng (ông nội đồng chí Trường Chinh, đỗ Tam giáp tiến sĩ năm 1856). Theo các nhà khoa học, nếu tính cả số cử nhân và tiến sĩ từ thời Nguyễn đổ lại, các làng nhiều nhất như Đông Ngạc (Hà Nội), Quỳnh Lưu (Nghệ An) cộng lại, cũng chỉ bằng phần nửa của Hành Thiện. Còn chỉ tính riêng thời triều Nguyễn (1805-1915), làng có 88 người đỗ từ cử nhân đến đại khoa và gần 150 người đỗ tú tài. Nhìn chung, các sĩ tử xuất thân từ miền quê "trai học hành, gái canh cửi" đều trí tâm dùi mài kinh sử, vượt khó vươn lên; khi đỗ đạt làm chức quan cao trong triều, họ luôn giữ khí tiết, được nhân dân kính trọng. Đó là Thượng thư Bộ lễ Đặng Đức Địch, Tổng đốc Nghệ An Đặng Kinh Toán, Thị lang Bộ công Nguyễn Xuân Hiền, Tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hân, Tổng đốc Hải Dương Đặng Đức Cường...

Có thể nói, so với các vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ, Hành Thiện là làng có trường học công lập sớm nhất. Năm Khải Định thứ 10, Tổng đốc Đặng Đức Cường cùng các vị hương quản đem đấu cố 36 mẫu ruộng để lấy kinh phí xây dựng trường học cho các con em trong làng theo học, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo. Từ xa xưa, 17 dòng họ trong làng đều có hương ước quy định và khuyến khích, khen thưởng những người đỗ đạt. Đặc biệt, nhân dân xây dựng đình làng không phải để thờ cúng các vị nhân thần, nhiên thần như xứ Đông, xứ Đoài, mà dùng làm nơi hội họp và đọc "Mười điều ban huấn" nhằm cổ vũ, động viên, khuyến học, khuyến tài. Đất linh ắt sinh nhân kiệt. Hành Thiện là miền đất hiếu học, trọng văn, thượng võ, là nơi "xuất khẩu" nhân tài cho đất nước. Từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, làng có 116 giáo sư, tiến sĩ và có hơn 800 cử nhân, kỹ sư; trong đó, có nhiều người giữ chức vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước và là đầu ngành các ngành khoa học. Tiêu biểu là cố Tổng Bí thư Trường Chinh; cố Bộ trưởng Bộ y tế Đặng Hồi Xuân; Bộ trưởng Đặng Vũ Chư; Giáo sư Đặng Vũ Khiêu (giải thưởng Hồ Chí Minh); giáo sư Đặng Vũ Hỷ (giải thưởng Hồ Chí Minh); Giáo sư, tiến sĩ Đặng Viết Bích; các Giáo sư Đặng Vũ Minh, Phạm Ngọc Triều, Đặng Huy Hiền...

Không chỉ nổi danh về khoa bảng, Hành Thiện là quê hương giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Mảnh đất này đã "gieo mầm" và tôi luyện những người cộng sản như các đồng chí: Đặng Xuân Khu (Trường Chinh); Nguyễn Thế Dục; Đặng Xuân Thiền. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, đế quốc Mỹ, nhân dân Hành Thiện một lòng theo Đảng, theo cách mạng, đồng tâm "một tấc không đi, một ly không rời", bám đất, bám làng, trong đó có nhiều người con quê hương được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như: Anh hùng Phạm Gia Triệu, Anh hùng Đặng Quốc Bảo, Anh hùng Đặng Quân Thụy...

Sức sống mới trên nền truyền thống

Với bề dài của vùng đất "địa linh, nhân kiệt", làng Hành Thiện hôm nay dang vững tiến trên con đường CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh và phong trào khuyến học, khuyến tài "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là những huyền tích mới trong trang sử vẻ vang của vùng đất " lý ngư "thời đổi mới. Mỗi dịp về Hành Thiện để tìm một "lời giải" về thế đứng Hành Thiện, mắt thấy, tai nghe chuyện xưa, chuyện nay, chúng tôi càng thấu đáo lời tự sự của Anh hùng lao động, Giáo sư Vũ Khiếu khi ông viết về quê hương: "Hành Thiện đất đai chật chội, chẳng đủ cày ruộng thì phải cày sách, đỗ đạt rồi lại biết giúp nhau học tập. Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm. Nói chung, vai trò của người phụ nữ là cực kỳ quan trọng. Ông tôi, nhà rất nghèo, ăn cơm cám thôi nhưng bà bắt chồng đi học, sau đỗ cử nhân, bắt bốn con đi học, cũng đỗ cử nhân hết; hai con gái lấy chồng cũng lo cho chồng đi học, một người đỗ tiến sĩ, một người đỗ cử nhân. Người phụ nữ ở Hành Thiện lấy chồng đều dồn hết tâm sức lo cho chồng thi đỗ..., chẳng thế người đỗ đạt, một phần ba khoa thi là dân Hành Thiện!".

Quả thực, phong trào khuyến học, khuyến tài cũng như những câu chuyện "cá chuối đắm đuối vì con" ở trên dải đất này thật cảm động. Tấm gương người mẹ Đặng Thị Huỳnh, chồng mất sớm, một hình tần tảo nuôi con là Đỗ Đức Địch ăn học, đỗ Phó bảng khoa thi Kỷ Dậu (1849), làm tới chức Thượng thư Bộ Lễ luôn là nét khắc cao đẹp về truyền thống hiếu học, trọng tài của làng, được các thế hệ con cháu truyền tụng và noi theo. Là một vùng quê thuần nông, lại cận giang, đất và người Hành Thiện từ thuở lập ấp, sáng nghiệp luôn phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Đó cũng là cơ duyên "chẳng đủ cày ruộng thì phải cày sách". Hạt gạo, hạt muối ở nơi đây dường như nửa để sống, nửa để nuôi con ăn học. Chính trong môi trường đó, mà ở làng Hành Thiện bao giờ thiếu các tấm gương hiếu học, thành đạt từ vượt khó. Câu chuyện về cụ Nguyễn Thị Phấn ở xóm 4, chồng mất sớm, một mình "thân cò lặn lội" nuôi 3 con ăn học thành tài được cả vùng biết tiếng, trân trọng. Đến nay gia đình cụ có 15 người con cháu có bằng đại học, trong đó cháu nội là em Nguyễn Ngọc Minh, đỗ thủ khoa Trường đại học Bách khoa Hà Nội đạt 30/30 điểm. Được đi du học tại Xin-ga-po, vợ chồng ông Nguyễn Tiến Lộc, ở xóm 7, thu nhập của gia đình chỉ "trông vào cây lúa", nhưng cùng động viên nhau thắt lưng buộc bụng nuôi các con thành đạt (2 tiến sĩ, 4 cử nhân, kỹ sư). Rồi nhắc đến vợ chồng anh chị Đào Thị Bình, Nguyễn Ngọc Tiến ở xóm 10, một gia đình thuần nông nuôi con ăn học, ai cũng cảm động và khâm phục, nhà nghèo để có kinh phí lo cho con ăn học, ông Tiến phải lên Hà Nội làm cửu vạn, ai thuê việc gì làm việc nấy, nơi quê nhà chị Bình vừa làm ruộng, lúc nông nhàn đi đồng nát, xoay đủ nghề để kiếm từng đồng để cho con đóng học phí. Giờ đây, bù đắp lại những năm tháng khó khăn vất vả của anh chị, là sự thành đạt của các con. Cháu lớn Nguyễn Văn Dũng tốt nghiệp loại giỏi Trường Đại học Mỏ- Địa chất ngành Dầu khí, hiện đang công tác tại Quảng Ninh; cháu Nguyễn Thị Dung tốt nghiệp đại học Giao thông vận tải có công việc và thu nhập ổn định; con trai út là Nguyễn Ngọc Diệp tốt nghiệp trường đại học Sư phạm Hà Nội về giảng dạy tại trường cấp III của huyện.

Đúng là, "có ruộng bề bề, không bằng có nghề trong tay". Người dân Hành Thiện tự bao đời nay, đã cùng "quyết" theo một nghề: "nghề học". Trao đổi với chúng tôi về sự nghiệp trồng người, đồng chí Nguyễn Đăng Hùng, Chi hội trưởng Hội khuyến học tâm sự: "Người Hành Thiện, chuyện gì có thể bất đồng quan điểm, chứ chuyện khuyến học, khuyến tài thỉ luôn cùng tiếng nói". Được biết, trong 5 năm qua, ngôi làng với hơn 1000 hộ dân nay, đã "xuất xưởng" tới gần 300 sinh viên đại học, cao đẳng. Năm 2005, cả làng có 72 em dự thi, thì có tới 57 đỗ đại học, cao đẳng. Năm 2006, tại lễ tuyên dương các em có thành tích cao trong kỳ thi đại học, có 52 em là tân sinh viên của làng được nhận phần thưởng. Như vậy, nếu tính từ thời Nho học đến nay, làng Hành Thiện có hơn 1000 người có trình độ từ đại học đến tiến sĩ, trung bình mỗi gia đình có một cử nhân, không ít gia đình có từ 5-10 cử nhân (còn gọi là: Tứ tử đăng khoa) như gia đình ông Tường, ông Hùng, ông Minh,ông Phấn... Tất cả các dòng họ trong làng đểu có người đỗ đạt, có học hàm giáo sư, học vị tiến sĩ. Mỗi dòng họ có phương thức động viên con cháu theo cách riêng, nhưng đều hết lòng vì sự nghiệp khuyến học chung của làng. Ngay từ năm 1993, Hội khuyến học Hành Thiện được thành lập, kinh khí chưa nhiều nhưng đã động viên kịp thời con em; phát động sâu rộng phong trào khuyến học, khuyến tài đến từng thôn, xóm, thu hút toàn dân tham gia thực hiện. Đây cũng là cơ sở để người dân Hành Thiện đưa ra Nghị quyết: Phấn đấu đến năm 2010 sẽ phổ cập đại học cho thanh niên với chỉ tiêu 100% học sinh THPT đỗ đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề. Cũng từ chính sách "đầu tư vào nghề học" người dân nơi đây đã đưa cái tên Hành Thiện nổi tiếng khắp mọi miền đất nước. Đúng như nhà thơ Sóng Hồng (Trường Chinh) đã dẫn dụ một cách chân thực về truyền thống của đất và người Hành Thiện: "Trăng sáng trải chiếu hai hàng/ Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ".

Lê Việt Thắng


Nguồn Báo Hải Phòng

read more “Cổ tích mới về “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện””

Ông thủ từ khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh

Cách đây 27 năm, đích thân Tổng bí thư Trường Chinh sau 21 năm về thăm quê đã chỉ vào ông và nói: "Nếu đồng chí này vui vẻ nhận nhiệm vụ thì giao". Và cũng ngần ấy năm, ông Nguyễn Thế Hiệp vui vẻ nhận nhiệm vụ bảo quản, sưu tầm, giới thiệu khu lưu niệm cố Tổng bí thư tại xóm 7, thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Đầu xuân Kỷ Sửu, chúng tôi xuất hành tới đất học Hành Thiện. Ngôi làng hình cá chép thời Nho học có 419 người đỗ đạt cao, trong đó có 4 người làm quan Thượng thư, 4 quan Tổng đốc, 23 quan Giáp, 69 quan tri phủ, tri huyện…

Thời tân học, Hành Thiện đã sinh ra cho đất nước một đồng chí Tổng bí thư và 15 người là Thứ trưởng, tướng lĩnh, Anh hùng Lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cũng ở đất học Hành Thiện, đã có 45 vị Giáo sư và Phó Giáo sư. Đến Hành Thiện, chưa đến thăm khu lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh, chưa thể về, thầy giáo Mộng Anh, Trường THPT Xuân Trường giới thiệu với chúng tôi.

Thôn Hành Thiện có 14 xóm, khu lưu niệm nằm trong xóm 7. Ngay từ đầu xóm, chúng tôi đã rất ấn tượng với vẻ cổ kính của vòm cổng. Đi vào bên trong, một khung cảnh thôn quê với những ngôi nhà mái ngói, những vườn rau xanh mướt. Khu lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh cũng bình dị như xung quanh. Nghĩa là cũng nhà ngói, nhà mái bổi, sân gạch, ao cá, cây ăn trái.

Ông Nguyễn Viết Điềm, bảo vệ khu lưu niệm cho biết, những ngôi nhà hơn 100 tuổi ở Hành Thiện còn nhiều lắm, có đến gần 300. Ngôi nhà của gia đình cố Tổng bí thư cũng được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX. Vẻ dân dã của nó rất dễ lẫn vào khung cảnh thanh bình nơi đây.

Chúng tôi khá bất ngờ khi tiếp xúc với thủ từ khu lưu niệm, ông Nguyễn Thế Hiệp. Ông có vẻ bề ngoài chất phác như những người nông dân luống tuổi dễ gặp ở quê. Nghe ông nói, chúng tôi vô cùng khâm phục về vốn kiến thức văn hoá cổ cũng như sự am tường chữ Hán Nôm ở người đàn ông này. Chúng tôi càng bất ngờ hơn khi biết, kiến thức của ông do tự học.

Sinh năm 1952, học chưa hết cấp II, ông đi bộ đội. Rời quân ngũ với thương tật 31% sức khoẻ, ông trở thành anh dân cày và lấy vợ sinh liền 4 đứa con. Công việc nhà nông vốn vất vả nhưng ông vẫn tích cực tham gia công tác xã hội.

Năm 1981, khi ông đang là Bí thư xã đoàn thì cũng là dịp Tổng bí thư Trường Chinh về thăm quê. Sau hơn 20 năm xa cách, trở về nếp nhà xưa, Tổng bí thư vô cùng xúc động. Đây là nơi Tổng bí thư sinh ra, lớn lên, lập gia đình và cũng có cả thời gian đồng chí về đây hoạt động cách mạng.

Trước đó, UBND xã, huyện, tỉnh đã có chủ trương xây dựng nơi đây thành khu lưu niệm. Thế nên, khi đồng chí Tổng bí thư về thăm quê đã đề xuất chủ trương này. Giữa những vị cán bộ chủ chốt của địa phương, đích thân đồng chí Tổng bí thư đã chỉ vào ông Nguyễn Thế Hiệp, khi đó mới 31 tuổi mà bảo rằng: "Nếu đồng chí này vui vẻ làm nhiệm vụ thì giao". Lời đề nghị giản dị của đồng chí Tổng bí thư lúc đó khiến ông vô cùng xúc động. Chắn hẳn, đồng chí Tổng bí thư rất hài lòng về câu trả lời của ông về gia thất, về đồ vật, đặc biệt là cách hiểu về 4 đôi câu đối, hoành phi treo trong nhà.

Theo ông Hiệp, ngôi nhà ngói đơn sơ của gia đình cố Tổng bí thư thời điểm đồng chí về thăm đang nằm trong diện bảo quản của chính quyền xã. Có lúc, ngôi nhà được trưng dụng làm trụ sở Hợp tác xã nông nghiệp, trụ sở UBND xã hoặc cho người dân ở nhờ. Còn trước đó, khoảng trước năm 1956, khi hai cụ thân sinh cố Tổng bí thư đi tản cư trong Thanh Hoá, nhà được gửi lại họ hàng. Năm 1956, hai cụ ra Hà Nội.

11_ong1299-to

Ông Nguyễn Thế Hiệp giới thiệu về khu lưu niệm.

Năm 1958, cụ ông mất. Năm 1960, cụ bà lại theo cụ ông về với tổ tiên, ngôi nhà tiếp tục được để cho họ hàng trông nom. Dù nhiều năm trôi qua, nhưng những vật dụng trong nhà vẫn để nguyên và bảo quản tốt. Chính vì vậy, khách đến tham quan khu lưu niệm hôm nay vẫn được sống trong không gian như thuở sinh thời của Tổng bí thư.

"Các cháu đọc "Lều chõng" của Ngô Tất Tố chưa?", ông Nguyễn Thế Hiệp chợt cất tiếng hỏi. Khi thấy chúng tôi cùng trả lời là đọc rồi, ông chỉ vào hai chiếc hộp gỗ để dưới chân hai bên bàn thờ và bảo "Lều chõng đây". Nói rồi, ông mở hộp và lấy ra những cuốn sách viết bằng chữ Hán. Đó là hành trang của thí sinh mỗi khi đi ứng thí. Ông lại mở hộp gỗ phía bên kia và lấy ra cái nồi đồng bé xíu. Ông giải thích rằng, nhìn vào cái nồi đồng chỉ nấu được khoảng một đấu gạo này, sẽ suy đoán ra, người sử dụng khi vào kinh thành dự thi không có người theo hầu. Thuở ấy, đường đi lối lại vô cùng khó khăn, gian khổ, trong dân gian có câu "Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang".

Vậy mới biết, việc dùi mài kinh sử của các bậc nho sỹ khi xưa vô cùng gian khó. Những hiện vật lều chõng một thời đang trưng bày trong khu lưu niệm này cho thấy truyền thống khoa cử của gia đình cố Tổng bí thư.

Chúng tôi đặc biệt thích thú khi nghe ông Nguyễn Thế Hiệp giới thiệu về bức hoành phi và các đôi câu đối. Đó là những kỷ vật những bậc tiền nhân trong gia đình cố Tổng bí thư đã được bạn bè thân hữu tặng. Đó là những đôi câu đối cuốn trúc, đôi câu đối tạo trên hình lá cây (lá chuối)… Mỗi hiện vật ngoài dấu ấn thời gian còn mang trong nó đậm nét văn hoá và lịch sử. Chúng chính là tộc phả bằng hiện vật. Phải là người am hiểu Hán Nôm, văn học của tiền nhân mới hiểu và giảng giải cho khách tham quan đầy đủ về thân thế, sự nghiệp của cố Tổng bí thư cũng như thân tộc ông. Từ một người văn hoá học bổ túc văn hoá cấp II, trong gần 30 năm tự học, ông Hiệp đã không ngừng trau dồi kiến thức mọi mặt để xứng với niềm tin được cố Tổng bí thư giao phó.

Trở lại cái ngày đáng nhớ được Tổng bí thư giao nhiệm vụ, ông Hiệp bảo rằng ngay sau đó ông chính thức trong "biên chế" trông coi khu lưu niệm. Lương của ông lúc đó được xã trả công là 1,6 tạ thóc một vụ. Nhưng với ông, công xá có hề chi. Ông được Tổng bí thư tin tưởng và giao nhiệm vụ đã là một niềm tự hào rồi.

Năm 1994, khu lưu niệm được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Trước đó 3 năm, ông được vào biên chế của Phòng Văn hoá huyện. Một sự ghi nhận đóng góp của ông rất xứng đáng. Lại nói về việc học chữ Hán, ông bảo gia đình mình nhiều đời làm thủ từ ở chùa Keo (còn có tên gọi khác là chùa Hành Thiện). Ngôi chùa lớn vào bậc nhất vùng, ra đời từ năm 1588 nhưng đến nay chưa từng có sư trụ trì. Ngay thời còn để chỏm, các bé trai trong gia đình ông đã học Tam tự kinh. Ông dạy bố, bố dạy con….

Thế hệ này truyền cho thế hệ kia, cái vốn kiến thức nho học cứ thế ngấm dần. Nói rồi, ông lại chỉ cho chúng tôi xem bức chân dung vua Duy Tân hồi trẻ treo trên bức vách phía bên phải mà bảo rằng, chữ tượng hình có cái hay đặc biệt. Vua Duy Tân khi còn là đứa trẻ lên 10 đã từng đối đáp câu đối xách mé của một cố đạo người Pháp khi nghe hỏi: "Rút ruột ông vua, tam phân thiên hạ" (chữ "vương", nếu không còn nét dọc thành chữ "tam".

Ý của người này muốn nói đến ý đồ phân chia nước ta thành ba kỳ của thực dân Pháp (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ). Đức vua đáp lại ngay rằng "Chặt đầu thằng Tây, tứ hải giai huynh" (chữ "tây" nếu bỏ phần đầu sẽ thành chứ "tứ"". Câu trả lời của vua Duy Tân hàm chứa quyết tâm bảo toàn lãnh thổ nước Nam ta.

Các bậc tiền nhân của gia đình cố Tổng bí thư treo ảnh vua Duy Tân là cách thể hiện lòng mến mộ và kính yêu. Dân gian từng lưu truyền câu chuyện, một lần đức vua nhỏ tuổi nghịch cát. Cận vệ mới đem nước cho đức vua rửa tay, nhà vua bỗng hỏi "tay bẩn lấy nước mà rửa. Nước bẩn lấy chi mà rửa?". Nói rồi, nhà vua tự trả lời "nước bẩn lấy máu mà rửa".

Chính bởi am tường các điển tích, điển cố nên ông Hiệp đã truyền cho khách tham quan niềm hứng khởi cũng như ý thức ham học hỏi. Bằng sự tự học và niềm tin yêu đối với người học trò giỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Hiệp đã truyền thụ cho khách tham quan những giá trị chân thực từ những hiện vật đang lưu giữ.

Gần 30 năm gắn liền với khu lưu niệm, ông Hiệp không nhớ mình tiếp bao nhiêu đoàn khách trong và ngoài nước. Trong đó có các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh… Hiện nay, ông đã có hàng chục cuốn sổ lưu bút của những người đến tham quan.

Tại trang đầu tiên của cuốn sổ thứ nhất, có bút tích của Tổng bí thư Trường Chinh. Tổng bí thư viết: "Hai mươi mốt năm nay, trở lại quê nhà, tôi vô cùng phấn khởi thấy cuộc sống của bà con nhiều đổi mới và có nhiều tiến bộ. Đó là do đồng chí, đồng bào xã ta ra sức thi hành Chỉ thị của Trung ương và Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Tôi không năng về quê, vì bận công việc chung của cả nước. Tuy vậy, lòng tôi luôn luôn bên cạnh bà con và theo dõi từng bước tiến của quê hương. Chân thành chúc bà con xã nhà và đồng bào cả nước mạnh khoẻ và thu được nhiều thành tích trong sự nghiệp chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc". Phía dưới, Tổng bí thư ghi ngày 3 tháng 3 năm 1981 và ký tên Trường Chinh.

Với ông thủ từ Nguyễn Thế Hiệp, việc lưu giữ bút tích của Tổng bí thư Trường Chinh và các đoàn tham quan vô cùng quan trọng. Nó là chứng tích quan trọng, đôi khi mang dấu ấn lịch sử. Bút tích của Tổng bí thư vừa nêu trên là một ví dụ. Đoạn Tổng bí thư viết "Đó là do đồng chí, đồng bào xã ta ra sức thi hành Chỉ thị của Trung ương…" đã nhắc đến việc thực hiện Chỉ thị 100 CT/TW về nông nghiệp.

Đích thân Tổng bí thư đi kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị này của bà con nông dân quê mình. Mang trong mình niềm tự hào là người con Hành Thiện, được đích thân Tổng bí thư giao nhiệm vụ, ông thủ từ Nguyễn Thế Hiệp vô cùng trân trọng những di huấn và hiện vật trong khu lưu niệm này.

Trong lộ trình phát triển du lịch của tỉnh Nam Định, khu lưu niệm này cũng nằm trong những điểm tham quan. Đến đây, rất nhiều du khách sẽ hiểu thêm về người chiến sỹ cách mạng Trường Chinh cũng như vùng đất giàu truyền thống hiếu học Hành Thiện.

Cao Hồng - Nguyễn Hương

Nguồn báo Công An Nhân Dân

read more “Ông thủ từ khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh”

“Thần đèn” di dời nhà trong khu tưởng niệm cố TBT Trường Chinh

"Thần đèn” đất bắc Đỗ Quốc Khánh sẽ tiến hành di dời 2 khối nhà nặng hàng trăm tấn trong khu tưởng niệm cố tổng bí thư Trường Chinh tại làng Hành Thiện (xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường.
Trao đổi với Dân trí, thạc sỹ Đỗ Quốc Khánh, người được mệnh danh là “thần đèn đất Bắc” cho biết: việc di dời 2 khu nhà này nằm trong hoạt động giải phóng mặt bằng quần thể lưu niệm cố TBT Trường Chinh.

Khu nhà thứ nhất là đài phát thanh huyện Xuân Trường, 2 tầng, diện tích mặt bằng khoảng 200m2, có trọng lượng khoảng 600 tấn. Công trình này từng được “thần đèn” Nguyễn Cẩm Lũy tổ chức di dời cách đây 2 năm, đã “đi” được khoảng 10m nhưng đành bỏ dở và đến nay đã bị lún nghiêm trọng.

Công việc lần này của “thần đèn” Đỗ Quốc Khánh là nâng cao công trình này lên 70cm, chỉnh thẳng, di dời quãng đường khoảng 50m, xoay 180 độ và đặt vào vị trí móng mới.

thanden1-070808

Bản vẽ thiết kế việc di dời, xoay 180 độ công trình nặng 600 tấn (Ảnh: Phúc Hưng)

Khu nhà thứ hai là Trung tâm Dân số Gia đình và Trẻ em, 2 tầng, diện tích sàn 150m2, trọng lượng khoảng 400 tấn. Công việc của ông Khánh là nâng công trình lên cao khoảng 30cm, xoay 90 độ, di dời 12m vào vị trí móng mới. Trước đó, Công ty xử lý lún nghiêng Việt Nam sẽ tiến hành thiết kế, thi công làm đường, sàn quay… để phục vụ việc di dời.

Hợp đồng giữa Công ty xử lý lún nghiêng Việt Nam mà “thần đèn” Đỗ Quốc Khánh làm giám đốc và BQL khu tưởng niệm cố TBT Trường Chinh sẽ được ký kết trong sáng nay, 7/8. Kinh phí đã được duyệt là 970 triệu và công trình dự kiến hoàn thành vào cuối năm nay.

Đánh giá về công trình lần này, “thần đèn” Đỗ Quốc Khánh cho rằng còn khó hơn việc di chuyển khối nhà nặng 3.000 tấn mà công ty ông thực hiện vào tháng 1/2008 do việc xoay xở các công trình luôn phải đúng yêu cầu kỹ thuật trong khi diện tích mặt bằng chỉ khoảng 1ha.

Phúc Hưng

Nguồn Dân trí

read more ““Thần đèn” di dời nhà trong khu tưởng niệm cố TBT Trường Chinh”

Bí mật nào khiến Người như vậy: Tình Yêu! (Phần III)

Tôi bắt đầu được sống trong thế giới tâm hồn Tuấn – Thư và diễn biến mối tình cảm động của họ. Ở đó tôi gặp những điều thật là mộc mạc, giản dị và gần gũi cuộc sống. Có lúc tôi thấy họ đang ngồi trong lớp học tranh luận một câu thơ, đoạn văn. Có lúc tôi thấy họ đang dạo bước trên bãi cát mịn màng nhặt hòn sỏi dẹt thi nhau thia lia rồi cùng đếm bước nhảy của hòn sỏi trên mặt sóng sông Đà... Tình cảm của họ và những người quanh họ vừa sục sôi vừa kìm nén để rồi cùng vỡ oà hạnh phúc.

Ngay từ những lá thư đầu tiên Tuấn làm quen với Thư, lời lẽ rất thẳng thắn, chân thành chỉ với nguyện vọng: Kết bạn. Và cái duyên đã gặp duyên, Thư đồng ý làm bạn với Tuấn. Đến lá thư thứ 2-3 trở đi, Tuấn đã nói rõ điều kiện gia đình và bản thân, cùng những khó khăn vất vả trong cuộc sống, sinh hoạt của riêng anh… Thư đã thực sự xúc động, thực sự đồng cảm và sẵn sàng chia sẻ với anh tất cả mọi điều.

Qua tấm ảnh Tuấn gửi cho Thư, thấy đôi chân của Tuấn co quắp tóp teo, Thư đã khóc rất nhiều và càng thương Tuấn hơn. Giao lưu tâm sự, Thư thấy Tuấn là người rất minh mẫn, am tường khá nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Là người tật nguyền đã lâu nhưng Tuấn không hề mặc cảm bi lụy. Tuấn có nhiều sở thích và quan điểm tương đồng với Thư. Được trò chuyện với Tuấn, Thư thấy rất thoải mái thú vị, không những thế, Thư còn học hỏi được ở Tuấn nhiều điều.

8313_tinhyeu_3

Thư đưa ông Tấn (bố Tuấn) đến thăm Nhà tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh
làng Hành Thiện

Với Thư, Tuấn thường xuyên khích lệ động viên và quan tâm chu đáo (điều mà lẽ ra Thư phải làm với Tuấn). Tất cả, tất cả những cái đó khiến Thư quý mến và cảm phục Tuấn. Dù tật nguyền về thể xác, nhưng Tuấn rất minh mẫn về trí tuệ, cao đẹp về tâm hồn. Thư nghĩ, có lẽ những người khỏe mạnh không phải ai cũng có được vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ như Tuấn.

Về phía Tuấn - một người nằm một chỗ mà được tâm sự với một cô gái trẻ biết tôn trọng mình, thực lòng đồng cảm “niềm vui nhân đôi, nỗi buồn sẻ nửa’’ thì còn hạnh phúc nào bằng. Nhất là một khi hai người lại đồng điệu về nhiều sở thích, cùng quan điểm, cùng những mối quan tâm chung thì niềm vui, hạnh phúc ấy lại càng được nhân lên. Vì vậy mỗi lần nhận và đọc thư của Thư, tinh thần Tuấn càng thêm lạc quan và cảm xúc thăng hoa.

Không chỉ quan tâm đến nhau, họ còn quan tâm đến người thân của nhau, coi bố mẹ, anh em của bạn như bố mẹ, anh chị em của mình. Ngoài những tâm sự về gia đình – xã hội, họ còn bình phẩm về một bài thơ, bài hát hay mà cả hai người cùng thích, cùng bình luận và nêu quan điểm về bất kỳ một vấn đề gì của xã hội mà họ cùng quan tâm. Đó là những vấn đề rất thực tế của đời thường, chứ không phải là chuyện trên trời dưới biển, viển vông, vô bổ.

Họ cứ thư từ qua lại như thế đến năm 2000. Và đã đến lúc Thư thực sự rung động. Trái tim của người con gái đã đập những nhịp đập của tình yêu. Mặc dù thời điểm này ở quê có 2-3 chàng trai đặt vấn đề tìm hiểu, nhưng trong trái tim và khối óc của Thư đã có bóng hình của Tuấn – một chàng trai tật nguyền nhưng rất giàu nghị lực.Thư muốn đem con tim yêu thương, tấm lòng chân thật tự nguyện hiến dâng cho Tuấn.

Rồi cũng đến lúc Thư nghĩ đến những tình cảm lớn hơn là bạn bè. Với suy nghĩ sau này khi bố mẹ Tuấn qua đời thì ai là người chăm sóc anh, Thư đã mong muốn mang đến cho Tuấn niềm hạnh phúc như người bình thường. Và, Thư đã dũng cảm vượt qua định kiến xưa nay đối với phụ nữ: “Trâu đi tìm cọc chứ ai đời cọc đi tìm trâu’’ để chủ động bày tỏ tình yêu với Tuấn. Thư đã đòi Tuấn vẽ đường để Thư lên Hoà Bình thăm anh.

Mặc dù đã được ngắm Thư qua ảnh, nhưng thật tâm Tuấn vẫn muốn một lần được nhìn thấy Thư bằng xương bằng thịt cho thỏa. Muốn đấy, nhưng Tuấn lại thấy thương và lo cho Thư một mình thân gái dặm trường đến quê người xứ lạ. Thư viết thư lên trấn an Tuấn: “Anh cứ yên tâm, Hà Nội, Hà Tây em đã qua, Yên Thủy, Kim Bôi, Hòa Bình em cũng tới rồi’’. Tuy vậy, Tuấn cứ lần lữa mãi…

Cho đến khi ông bà Tấn chuẩn bị tổ chức thành hôn cho em trai út của Tuấn vào ngày 18/12/2000, Tuấn xin phép bố mẹ rồi viết thư đồng ý cho Thư lên thăm Tuấn, gặp gỡ những người thân yêu của Tuấn và biết thêm thực tế về hoàn cảnh gia đình Tuấn. Kèm theo thư là sơ đồ hướng dẫn tỉ mỉ đường đi.

Một buổi sáng mùa đông se lạnh, Thư hối hả đạp xe ra bến xe Xuân Trường đi ô tô Nam Định - Hòa Bình. Đến ngã ba Kỳ Sơn, Thư xuống xe rồi rẽ phải, đạp xe xuôi sông Đà. Lúc này đã 12 giờ trưa. Với một chai nước mang theo và chiếc bánh mì lót dạ, Thư đạp xe gần 20 cây số đường đất gồ ghề, qua 5-6 con ngòi có cầu tre, gỗ bắc qua, vượt 4-5 con dốc ngoằn ngoèo qua xóm Đồng Sông, Nhà máy giấy và khu Cánh Chành để đến xóm Độc Lập xã Hợp Thịnh. Xa xa núi đồi trùng điệp. Trước mắt, sông Đà trong xanh lững lờ trôi. Thư cắm cúi đạp xe để nhanh chóng gặp người bạn tật nguyền đang mong chờ người tri âm tri kỷ.

Hơn 3 giờ chiều, Thư đã tìm đến được nhà Tuấn. Trong lúc mọi người đang tất bật cho ngày cưới, Thư bỏ chiếc xe đạp ngoài sân mà lao vào với Tuấn. Qua 6 năm giao lưu trên hàng ngàn trang giấy giờ mới được gặp nhau. Mắt trong mắt, tay trong tay kể sao cho hết nỗi niềm. Sau thoáng bàng hoàng, những người đang có mặt chuẩn bị cho đám cưới đã lẳng lặng quay ra để hai con người tri kỷ xa cách về không gian nay được thoả ước lần đầu gặp mặt. Thư cảm thấy như đang được ở nhà mình bên người thân yêu nhất. Sau 2 ngày vui với gia đình và thỏa sức tâm sự với Tuấn đã đến lúc Thư phải trở về Nam Định. Nói sao hết sự lưu luyến bùi ngùi. Họ bịn rịn chia tay, Thư hẹn ngày trở lại đất Hòa Bình.

Trở về Nam Định, nỗi niềm thương nhớ quặn thắt trong trái tim yêu của Thư. Thư muốn sớm trở thành người vợ của Tuấn, được gần gũi yêu thương và chăm sóc cho anh từng phút, từng giờ. Vì thế tình yêu trong Thư lại càng cháy bỏng hơn, lòng quyết tâm để trở thành người vợ của Tuấn ngày càng cao hơn.

Trong khi đó, con tim Tuấn thổn thức tình yêu nhưng lý trí của Tuấn lại băn khoăn trăn trở: “Mình là người tật nguyền nên dù rất yêu Thư nhưng nếu thành vợ chồng thì người yêu mình sẽ khổ. Mình không thể làm cho vợ được sung sướng. Mình có lành lặn đâu mà âu yếm cho vợ được hạnh phúc. Mình không thể là bờ vai nương tựa, là trụ cột gia đình nếu đi đến hôn nhân”.

Nhận được những lời ngay thẳng như trên của Tuấn, Thư đã khóc rất nhiều. Thư vừa giận lại vừa thương Tuấn vô cùng. Thư đã trả lời cương quyết: Anh không phải đắn đo lo ngại. Em tự nguyện yêu anh, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn vất vả thiệt thòi, hy sinh những niềm vui sở thích đời thường để gắn bó với anh trọn đời. Em sẽ là cánh tay, đôi chân của anh, nguyện bù đắp cho anh tất cả. Đến nước này, Tuấn không thể phụ tấm lòng và tình yêu của Thư. Và khi Tuấn nhận lời yêu, Thư bật khóc vì sung sướng hạnh phúc. Tuấn đã thưa chuyện của mình với bố mẹ, để xin ý kiến và cùng mừng cho Tuấn sẽ có hạnh phúc như người lành lặn.

8313_tinhyeu_2

Những lá thư tình yêu được Thư cất vào trong tủ cẩn thận

Bố mẹ Tuấn và mọi người trong gia đình rất vui rồi đoán già đoán non về mối tình Tuấn Thư. Nay nghe Tuấn thưa chuyện thì họ mừng lắm mà cũng lo lắm. Ông bà Tấn bảo: “ Con hãy viết thư nói với Thư là bố mẹ rất vui và trân trọng tấm lòng của Thư dành cho con. Nhưng cuộc sống gia đình đối với hai vợ chồng khỏe mạnh đã không đơn giản thì với cặp vợ chồng mà một người tật nguyền lại càng không đơn giản chút nào. Thư cứ suy nghĩ cho kỹ, cho chín đi đã để về sau không ân hận’’.

Trong khi đó ở Nam Định, Thư cũng thưa chuyện với bố mẹ anh chị em của mình: “Như bố mẹ đã biết, con và anh Tuấn đã giao lưu tình cảm suốt mấy năm qua, hai chúng con thấy ý hợp tâm đồng và con đã yêu anh ấy cho dù Tuấn hơn con 13 tuổi lại bị liệt 2 chân. Con đã gặp gỡ bố mẹ và các em của anh ấy. Con thấy kinh tế gia đình cũng bình thường thôi nhưng mọi người đều chất phác thật thà, sống có tình có nghĩa, con muốn xây dựng gia đình với anh để được gắn bó trọn đời cùng anh Tuấn.’’

Lần nào gửi thư về cho Thư, Tuấn đều có lời hỏi thăm và kính chúc sức khỏe bố mẹ, anh chị em của Thư, Tết Nguyên đán nào Tuấn cũng gửi thiếp chúc mừng năm mới tới toàn thể gia đình. Biết Tuấn là người tật nguyền (Thư đã cho bố mẹ xem ảnh của Tuấn) bố mẹ Thư thầm cảm phục. Nhưng họ không thể ngờ con gái mình lại yêu thương Tuấn, muốn xây dựng gia đình với Tuấn. Mẹ của Thư giãy nảy lên mà rằng: “Con có tỉnh táo không? Đường quang không đi, lại đâm quàng vào bụi rậm. Những người có học thức, có nghề nghiệp đàng hoàng, đẹp trai khỏe mạnh, gia đình khá giả, sao con không ưng mà lại muốn lấy một người tật nguyền nằm một chỗ, không làm gì được thì sống làm sao hả con?’’

Thư nói: “Mẹ dạy rất phải, nhưng ý con đã quyết, có lẽ đây cũng là cái duyên cái số của con, sướng khổ sau này con xin chịu. Bố mẹ thương con thì bằng lòng cho con lấy anh Tuấn’’. Sau nhiều ngày khuyên giải, ông bố Thư nói với vợ: “Bà xót con cũng phải, nhưng nghĩ đi thì phải nghĩ lại. Con nó có tấm lòng nhân ái cao cả. Tuy Tuấn là người tật nguyền nhưng lại là người nó yêu thương thật sự thì mình cũng không nên ngăn cấm. Ngay trong họ tộc nhà ta chả có đứa cháu trai bị câm mà cũng có cô gái tự nguyện yêu thương rồi đã thành cháu dâu họ nhà ta đó sao! Chả nhẽ bố mẹ của cháu dâu mình lại không xót con của họ? Quay sang Thư, ông bảo: “Thôi thì tùy con, bố mẹ tôn trọng sự lựa chọn và quyết định của con!’’

(Còn nữa)

Lê Va (Vietimes)
read more “Bí mật nào khiến Người như vậy: Tình Yêu! (Phần III)”

Bí mật nào khiến Người như vậy: Tình yêu! (phần II)

Tôi thành thực xin lỗi bạn đọc vì sự chậm trễ của mình trên con đường khám phá “Tượng đài Tình Yêu”: Tuấn – Thư. Sự chậm trễ của tôi bởi nguyên do: “Tượng đài Tình Yêu” ấy do hai người kiến tạo nên, nhưng chìa khóa mở cửa vào Tượng đài, hiện chỉ do một người nắm giữ. Người đó chính là Anh Thư.

Từ khi manh nha biết về chuyện tình của họ, tôi đã đến với họ rất nhiều lần. Mỗi khi đến, tôi đều được Anh Thư tiếp đón niềm nở, được Tuấn nói chuyện say sưa. Tôi chưa khi nào thấy Thư biểu lộ nét buồn trên gương mặt phúc hậu. Đặc biệt đôi mắt to, đen láy của Thư mỗi khi tôi được nhìn vào thì vừa như phô bày một “mỏ quý” tâm hồn lộ thiên, vừa như ẩn chứa bao điều bí ẩn.

08310-ty4

Tuấn và Thư bên nhau

Thư sôi nổi tranh luận bất cứ điều gì tôi nêu ra và thường đoán trước những điều tôi sắp nói. Khi đàm đạo về văn chương, thơ phú, một bài báo hay về một chủ đề nào đó, Thư rất “ hăng”. Nhưng hễ tôi gợi đến chuyện tình của họ thì Thư lập tức lảng sang chuyện khác. Tôi nhớ lần đầu đến với họ. Cứ nghĩ như những khi đến tìm hiểu viết bài thông thường, tôi đặt thẳng vấn đề về chuyện tình Tuấn – Thư thì Thư cương quyết phản đối. Thậm chí, buổi sáng đầu tiên ấy, Thư đã chào tôi và nói phải đi giải quyết công việc đến chiều mới về. Chính những thông tin ban đầu mà tôi có được là nhờ nói chuyện với Tuấn và bố mẹ anh khi Thư không có nhà.

- Nói thật với anh, em thì không có vấn đề gì, nhưng nhà em thì khó khăn đấy! Cô ấy không muốn tuyên truyền chuyện của chúng em. Cô ấy chỉ muốn mọi người nhìn nhận chúng em một cách hết sức bình thường chứ không muốn xáo động một cái gì. Bởi vì đối với chúng em mà đặc biệt là nhà em đã vượt qua biết bao điều dị nghị. Đó là những nghi ngờ, bình phẩm, bàn tán của bàn dân thiên hạ. Nào là nhất định con ấy trí tuệ không bình thường, chắc có vấn đề nhỡ nhàng gì đấy, hay bị thất tình rồi tặc lưỡi trả thù đời…

Thậm chí khi chúng em lấy nhau rồi không ít người còn dò hỏi xem “con ấy có biết làm gì không”. Mỗi khi nhà em ra ngoài đường thì bao nhiêu con mắt hiếu kỳ đổ dồn vào săm soi cứ như Thư là người từ hành tinh khác vừa đổ bộ trái đất. Đã có lần một người đàn ông ngỗ ngược đã sàm sỡ, đụng chạm vào cơ thể nhà em… Những chuyện như thế anh bảo làm sao em không thương cô ấy được. Nhưng rồi chính cô ấy lại động viên em: Mình cứ sống thật lòng mình rồi mọi người sẽ hiểu…

Có lẽ nghĩ tôi đã nản lòng mà bỏ cuộc nên khoảng hơn 11 giờ thì Thư về. Thấy Thư về, tôi và Tuấn chuyển ngay sang nói chuyện về thơ. Lúc chia tay tạm biệt họ, Thư vui vẻ nhắc: Thỉnh thoảng mời anh xuống chơi với vợ chồng em cho vui. Anh và chồng em cứ đọc nhiều thơ vào, chứ đừng hỏi về chuyện của bọn em nhé!

- Sao lại thế ?

- Thì chuyện có vậy ai chả biết!

- Nhưng anh chưa biết và rất muốn biết cho tường tận!

- Thì qua thư từ, bọn em hiểu nhau, yêu nhau, lấy nhau… thế thôi!

- Thực lòng, anh muốn được chiêm ngưỡng “kho” thư của bọn em cơ!

- Thư của chúng em hỏng hết rồi!

08310-ty2

Kho thư tình yêu của Tuấn-Thư

- Anh biết em bảo quản những bức thư ấy rất cẩn thận. Nghe đâu thỉnh thoảng em lại đem phơi cho khỏi ẩm cơ mà!

- Thế thì anh cứ chịu khó xuống đây, tình cờ gặp hôm nào em phơi thư thì tha hồ mà xem nhé!

Thế rồi tôi ra về mà trong lòng ngổn ngang suy tư. Biết Thư rất dí dỏm, thỉnh thoảng tôi lại điện hỏi thăm và khẩn khoản:

- Em ơi! Hôm nay trời nắng đẹp đấy, phơi thư đi em!

Tôi nhận được tiếng cười trong trẻo của Thư kèm theo câu trả lời:

- Ở chỗ anh nắng chứ ở chỗ em đang mưa to lắm!

Thế là tôi vẫn chưa thực hiện được ý định của mình.

Lúc đầu tôi cũng “lăn tăn” về sự bất hợp tác của con người này, nhưng nghĩ ra lại thấy rõ ràng mình không thể nôn nóng. Đứng trước một chuyện tình kỳ lạ đến như vậy, mình không thể đơn giản. Có lẽ chính sự sắt đá của “Người cầm chìa khóa” này mà câu chuyện tình cảm động đến thế diễn ra đã hơn mười năm và ở nơi chỉ cách thành phố Hòa Bình vài chục cây số mà cho đến nay vẫn ít người tường tận. Mặt khác, mối tình Tuấn - Thư được xây dựng một cách kỳ công đến kỳ bí như vậy thì tôi cũng không dễ gì hình dung nó chỉ trong một sớm, một chiều. Thế là tôi bình tĩnh và kiên nhẫn chinh phục Anh Thư như là “Chinh phục đỉnh Olympia” bằng cách thường xuyên đến thăm và đàm đạo với họ.

Đúng tám giờ sáng mồng 8 – 3 (2008), tôi cùng nhà báo Phạm Huy Định và bạn viết Hồng Nhung bất ngờ có mặt tại gia đình Tuấn Thư. Hồng Nhung tốt nghiệp đại học Sư phạm nhưng bị tai biến mạch máu não. Đã một thời gian dài Nhung liệt giường. Do nghị lực tập luyện đến nay Nhung đã đi lại được mặc dù còn rất khó khăn. Hiện Nhung đang dạy học tại nhà.

“Âm mưu” của chúng tôi là trao cho Tuấn một bó hoa tươi và nhờ Tuấn thay mặt cánh đàn ông tặng hoa cho Thư nhân ngày mồng 8 - 3. Tới gần nhà Tuấn Thư, chúng tôi tắt máy và dắt xe…

08310-ty1

Những "báu vật" này thường xuyên được mang ra phơi để bảo quản

Đến cửa ngõ, cả ba chúng tôi đứng chết lặng khi thấy một chiếc chiếu trải ở sân gạch. Trên chiếu là những sắp phong thư đang phơi dưới nắng. Trong nhà tiếng máy may đều đều xen tiếng trò chuyện của Tuấn – Thư. Thời cơ có một không hai, tôi rút máy ảnh chụp lia lịa đống “vàng ròng” ấy.

Sau thoáng bối rối, Thư bình tĩnh nói: Em đã không muốn cho các anh thấy những bức thư ấy. Chúng em ý định chỉ để riêng cho mình. Nhưng thế này có lẽ chúng em không thể giấu được nữa. Các anh cứ vào nhà chơi. Bình tĩnh đã.

Được lời như cởi tấm lòng. Tuy thế, chúng tôi lại càng dè dặt và tôn trọng quyền quyết định của Thư.

Thay mặt Phạm Huy Định, tôi chúc mừng ngày 8-3 Thư và nhờ Tuấn thay mặt cánh đàn ông tặng hoa cho Thư. Thư chưa nói gì thì Tuấn lên tiếng: Ngày mồng 8-3, em tặng hoa cho nhà em rồi. Đó là bông hoa em tự tay gấp. Các anh đến thì các anh tặng hoa cho nhà em chứ! Thú thực với các bạn, chúng tôi nghĩ ra cái cách nhờ Tuấn tặng hoa cho Thư để có cơ hội chụp ảnh thế mà lại không thành. Cuối cùng tôi đành nhận phần tặng hoa cho Thư.

08310-ty3

Tuấn gấp hoa tặng vợ ngày 8-3

Rồi sau đó, những bí ẩn đầu tiên được hé mở qua những trang thư đầu tiên trong số 304 bức thư của họ:

Nếu Tuấn là con cả của một gia đình có 5 anh em thì Thư lại là con thứ 3 của gia đình có 4 anh em. Nếu bố của Thư là bộ đội tham gia kháng chiến chống Pháp thì bố của Tuấn là bộ đội tham gia kháng chiến chống Mỹ. Hai bà mẹ của Tuấn và Thư cùng là những người phụ nữ nông thôn tần tảo, một nắng hai sương cho chồng yên tâm một thời trận mạc.

Vùng đất Hành Thiện và gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn, tính cách của người con gái tên Thư. Ngay từ những năm còn học phổ thông, Thư đã yêu thích sách báo, văn chương. Vốn sáng dạ, Thư chỉ theo học nghề may có 3 tháng là về mở cửa hiệu riêng. Vừa nhận may quần áo, Thư vừa tranh thủ những buổi đẹp trời đạp xe trên con đê ven làng. Từ cầu Lạc Quần đến cầu Đò Quan. Từ thành phố Nam Định qua Hải Hậu, Nghĩa Hưng… đến đâu Thư cũng mải mê thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương thanh bình và yêu dấu.

Thư luôn luôn tự hào về truyền thống cách mạng và văn hóa của quê hương cô. Rồi chính tình yêu quê hương đã nảy nở những cảm xúc để Thư cầm bút. Lúc đầu Thư viết những bài thơ ca ngượi tình yêu quê hương như là ghi lại những cảm xúc làm kỷ niệm cho mình. Dần dần Thư trở thành cộng tác viên của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Nam Định. Thế rồi khi Đài tiếng nói Việt Nam mở Chuyên mục “ Kết bạn”, Thư lập tức tham gia để rồi sớm gặp Tuấn trên những trang thư. Cứ thế, những cảnh đẹp của quê hương Nam Định được Thư thu vào tâm hồn mình rồi kể qua trang giấy đến với Tuấn.

Khi được biết Tuấn - Thư viết cho nhau 304 bức thư thì tôi vô cùng ngạc nhiên và đầy thắc mắc: Họ viết những gì mà “khủng khiếp” thế? Lời lẽ yêu đương ở đâu mà lắm thế? Cảm xúc thế nào mà tuôn trào đến thế? Rồi tôi liên tưởng đến kỷ niệm về mối tình đầu, rồi tình yêu cháy bỏng của mình. Thú thực, khi ấy tôi cũng chỉ có vài bức thư là không biết viết gì nữa. Nếu có phải viết thêm thì chắc là tôi cũng chán vì có thể nó sẽ luẩn quẩn bởi lặp đi lặp lại. Thế mà Tuấn – Thư thì…

Lá thư đầu Tuấn viết cho Thư ngày 29/6/1995 thì ngày 03/7/1995 Thư viết lá thư đầu tiên gửi Tuấn. Ngay trong lá thư đầu tiên này, Thư đã giới thiệu và giải thích cho Tuấn về cái tên Hành Thiện quê mình. Hành Thiện có nghĩa là chuyên “Làm việc thiện”. Chính Thư đã dành thời gian vào nhà thờ Phát Diệm cùng với các Sơ chăm sóc người khó khăn, trong đó có không ít người tật nguyền. Có lẽ vì thế mà đến lá thư thứ hai, khi biết hoàn cảnh của người bạn trai tên Tuấn bị bại liệt, Thư không những không e ngại mà lòng đầy cảm thông.

Những lá thư tiếp theo, Tuấn đã thể hiện tình cảm của mình trước sự gặp gỡ một người bạn tri âm. Tuấn đã viết về Thư: “ẩn chứa một điều gì thiêng liêng quá đỗi/ Mà có cái nhìn mang cả nỗi niềm riêng”. Đáp lại thư Tuấn, Thư lại viết: “ Gặp anh tìm nỗi buồn thơ ấu/ Chỉ thấy tiếng cười trong trẻo giữa hư không”. Và khi bài thơ “ Chiếc xe lăn” của Tuấn được giải cuộc thi Thơ dành cho người khuyết tật do tỉnh Hòa Bình phát động thì Thư đã chúc mừng Tuấn và mong mình được là “ chiếc xe lăn” để “ Chở nỗi buồn đi/ Chở niềm vui về” cho Tuấn.

(còn nữa)


Lê Va (Vietimes)

read more “Bí mật nào khiến Người như vậy: Tình yêu! (phần II)”

Bí mật nào khiến Người như vậy? Tình yêu!

6 năm. 304 bức thư. Ngắn nhất là 5 trang. Dài nhất là 20 trang giấy “phơi đúp” viết tay của hai con người chưa hề biết mặt nhau lại cách nhau hàng trăm cây số. Người con trai ngoài 30 tuổi gần như bất động trên giường đánh vật với từng con chữ. Người con gái tuổi đôi mươi, xinh xắn, khỏe mạnh, nết na thức thâu đêm để viết. Thế rồi họ đi đến hôn nhân tính đến nay đã được 6 năm. Và giờ đây họ đang tiếp tục say sưa xây dựng một “tượng đài Tình Yêu” kỳ vĩ bên dòng Đà Giang thơ mộng.



8304_ky_vy_1

Những bức thư đã xây lên một “tượng đài Tình Yêu” kỳ vĩ .


Trưởng thành trên giường bệnh


Sinh 1962, là con trai cả trong một gia đình có bốn anh em, Chu Phạm Minh Tuấn lớn lên khỏe mạnh như những đứa trẻ bình thường khác. Hơn nữa, em còn thông minh, ngoan ngoãn. Từ lớp một đến lớp năm, Tuấn luôn là học sinh giỏi đứng đầu lớp. Tuy còn nhỏ nhưng Tuấn đã biết ra đồng giúp mẹ làm cỏ, gặt lúa, vào rừng kiếm củi, lên nương trồng sắn. Không những thế, em còn biết chèo thuyền, giữ lái cho bố đánh cá trên sông Đà.


Nằm ở phía hạ lưu cách đập Thuỷ điện Hoà Bình vài cây số đường chim bay, xã Hợp Thịnh huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình) – một vùng đất thanh bình và thơ mộng. Ở đó, sông Đà trong xanh sớm chiều in bóng núi, những cánh đồng màu mỡ trải rộng từ chân đồi ra bờ sông, những đồi cát mịn màng đẹp như mơ được nhuộm đỏ vào mùa hoa gạo… Một đứa trẻ đẹp trai, thông minh, hiếu động, sinh ra và lớn lên ở một vùng quê như thế hẳn sẽ hứa hẹn bao điều.


Nhưng rồi số phận thật phũ phàng. Đang học lớp 5 (1974), một căn bệnh quái ác kéo đến hành hạ Tuấn. Lúc đầu, các khớp chân em sưng tấy. Gia đình đưa Tuấn đi khám, bác sĩ kết luận em bị viêm đa khớp. Hết bệnh viện huyện đến bệnh viện tỉnh. Hết Tây y đến Đông y rồi Đông – Tây y kết hợp. Cũng có giai đoạn bệnh tình thuyên giảm, Tuấn như con chim sổ lồng bay đến trường học tiếp lớp 6 trong niềm vui mừng khôn tả của gia đình, bạn bè và các thầy cô giáo.


Buồn thay, chẳng được bao lâu, con bệnh quay lại hành hạ cậu học sinh hiếu học. Không chịu xa trường, xa bạn, xa thầy cô, Tuấn nhờ bạn cùng lớp cõng đến trường để tiếp tục là học sinh giỏi đứng nhất lớp và tích cực giúp đỡ bạn trong học tập. Vừa thuốc thang vừa tập luyện, song sự quyết tâm của Tuấn cũng không thể kéo dài. Hết học kỳ I lớp 6, Tuấn lại phải xa trường, xa lớp lần thứ hai và không ngờ từ đây em vĩnh viễn phải từ giã mái trường thân yêu – nơi mình từng gắn bó và nuôi bao ước vọng. Đã bị bệnh tật hành hạ thể xác, nay nỗi đau không được tiếp tục đi học càng dày vò tâm hồn Tuấn khiến em suy sụp.


Thời gian đầu, hai tay hai nạng Tuấn còn nhúc nhắc vận động và giúp bố mẹ một số việc như bóc sắn, tẽ ngô. Và bằng với sự khéo léo, Tuấn còn chẻ nan đan những chiếc rổ, rá xinh xắn đủ dùng trong gia đình. Nhưng càng cố gắng bao nhiêu, càng hy vọng bao nhiêu, Tuấn càng thất vọng bấy nhiêu khi hai chân em cứng đờ và bắt đầu teo tóp. Từ hai chân, bệnh leo lên cột sống làm cho Tuấn cử động rất khó khăn.


“Có thể chữa được bệnh nhưng không chữa được mệnh”. Đó là câu nói nén tiếng thở dài của bà con đến thăm như là để động viên và cũng thông cảm sự cam chịu, sự bất lực của gia đình và bản thân Tuấn mà anh còn nhớ như in cho tới bây giờ. Tuy vậy, ai mách bảo ở đâu có thầy hay, gia đình Tuấn lại tìm đến với hy vọng “còn nước còn tát”. Nhưng rồi tất cả đều bó tay. Từ cột sống, bệnh lan ra cánh tay trái, Tuấn không thể dùng hai tay nhờ vào hai nạng mà đu thân mình lên nữa. Thậm chí, bò bằng hai tay Tuấn cũng không đủ sức. Nỗi lo sợ âm thầm thành người bại liệt toàn thân nay thành sự thật. Kể từ tháng 6/1983, Tuấn gần như bất động trên giường.


Dù thiệt thòi do bệnh tật nhưng Tuấn không thiệt thòi về tuổi. Nghĩa là Tuấn vẫn sống. Nhưng Tuấn phải từ giã tuổi thiếu niên để đón tuổi trưởng thành trên giường bệnh và cứ thế cho đến ngày nay.


Thương con, ông bà Tấn mua cho Tuấn một chiếc rađiô nhỏ cho có bầu bạn. Tuấn rất chăm chú nghe đài. Mà thực ra không nghe đài thì cũng chẳng biết làm gì. Vốn thông minh, nhớ giỏi, Tuấn thuộc giờ giấc các chương trình phát thanh. Không những thế Tuấn còn tham gia vào Chương trình góp ý của bạn nghe đài. Năm 1993, Tuấn được bầu chọn là một trong 10 thính giả xuất sắc nhất của Đài Tiếng nói Việt Nam và được tặng thưởng một chiếc rađiô. Đây là một phần thưởng tinh thần quý giá, là tiếp thêm nghị lực cho chàng trai “chịu bại liệt về thể xác nhưng quyết không chịu bại liệt về tâm hồn”.



8304_ky_vy_2

Chu Phạm Minh Tuấn “chịu bại liệt về thể xác
nhưng quyết không chịu bại liệt về tâm hồn”.



Những “lá bùa” tình yêu nồng cháy

Năm 1995, khi đã vào tuổi 33, Tuấn tham gia mục “Kết bạn” của Chương trình Thời sự và Âm nhạc - Đài Tiếng nói Việt Nam. Thông qua các tên người và địa chỉ mà Đài giới thiệu, Tuấn viết thư giao lưu với bạn bè. Đó là Kiều Oanh ở Mỹ Lộc, Lệ Ngân ở Xuân Thủy, Anh Thư ở Xuân Trường, Minh Huế ở Thái Bình. Với tình cảm chân thành, văn phong trong sáng, nét chữ cứng cỏi mà hào hoa, Tuấn đã cùng những người bạn tâm giao tâm sự suốt mấy năm trời.


Thế rồi với những lý do khác nhau mà chủ yếu là lý do xây dựng gia đình nên những người bạn lần lượt viết thư xin nghỉ giao lưu trong sự nuối tiếc của Tuấn. Không biết có phải vì lý do cá nhân hay ông Trời sắp đặt mà đã để lại duy nhất một người con gái sinh 1975 tên là Đặng Anh Thư quê ở Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định tiếp tục thư từ với anh. Từ những đồng cảm nội tâm, chung nhau nhiều sở thích… hai người nhanh chóng hiểu nhau và giao lưu thư từ không ngừng nghỉ.


Nếu như Anh Thư sau một ngày làm việc vất vả lại cặm cụi đêm khuya thanh vắng ngồi viết thư cho Tuấn thì ngược lại, Tuấn nằm ngửa trên giường, co bên chân phải đã teo tóp của mình lên, kê tấm bìa vào đó rồi dùng tay phải vừa viết vừa giữ giấy cho khỏi trôi, khỏi lệch. Trong tư thế ấy, bình thường thì dù cố gắng đến mấy, anh cũng chỉ viết được vài dòng là phải nghỉ. Chính Tuấn đã nói về việc viết của mình bằng thơ: “Nằm ngửa, đầu gối hơi cao/ Đùi kê bìa cứng kẹp giấy vào/ Tay phải vừa viết vừa ghìm giữ/ Được mươi dòng lại nghỉ giải lao”. Thế mà khi viết gửi cho Thư, Tuấn đã viết liên tục 20 – 30 dòng trong sự hưng phấn đến tột độ.


Bạn đọc có thể nóng ruột muốn biết bao giờ và lá thư thứ mấy thì Thư mới biết người bạn trai tên Tuấn của mình bị bại liệt? Xin thưa là chỉ ngay lá thư thứ hai Thư đã biết hoàn cảnh của Tuấn. Lá thư thứ nhất Tuấn gửi làm quen với Thư đề ngày 29/6/1995. Sau những ý tứ gợi mở, giản dị là mấy vần thơ: “Tâm hồn ta chiều nay thanh thản/ Nét bút gầy tìm đến với nhau/ Ghi gì đây hỡi bạn chưa quen/ Xin gửi tặng vần thơ kết bạn.”


Nhận được lá thư đầu tiên của Tuấn, không để anh phải đợi lâu, đêm đó, Thư đã thức đến 3 giờ sáng để viết thư cho anh. Và cứ thế, thư đi, thư đến. Và cứ thế, hết tháng lại năm, mối tình Tuấn – Thư ngày càng nồng cháy. Cho đến một ngày, Thư chủ động đặt vấn đề hôn nhân với Tuấn thì không những gia đình Tuấn mà ngay đến cả Tuấn cũng bàng hoàng, có lúc như muốn trốn chạy.


Sinh ra ở làng Hành Thiện - một địa danh được xếp vào hàng “địa linh nhân kiệt”, trong một gia đình nền nếp, bố giỏi chữ nho, một cô gái hiểu biết, mạnh khỏe, nết na chưa một lần yêu mà ngay từ năm 21 tuổi, qua thư từ đã đem lòng yêu một chàng trai chưa hề gặp mặt, hơn mình 13 tuổi lại bị bại liệt toàn thân… Trước sự thật ấy, không ít người cho là nhất định cô gái ấy có vấn đề không bình thường. Còn tôi, khi đã mục sở thị hạnh phúc của hai con người ấy sau 6 năm hôn nhân thì khẳng định người con gái ấy hoàn toàn bình thường như trăm ngàn những người con gái khác mà tôi đã gặp. Chỉ có điều, người con gái bình thường Anh Thư ấy đã làm nên một chuyện cổ tích giữa đời thường. Để từ đó góp phần làm cho tình yêu càng thêm kỳ bí.


Tôi và có lẽ tất cả chúng ta sẽ chẳng bao giờ giải thích được điều bí ẩn của tình yêu. Nhưng tôi sẽ cố gắng tìm cho tôi và mang đến cho các bạn thêm những bí mật mối tình Tuấn – Thư mà tôi cho là một tượng đài kỳ vĩ. Tôi sẽ cố gắng khám phá cái kho tài sản vô giá của họ. Đó là 304 bức thư tình với tổng cộng hàng ngàn trang viết tay, vượt qua chặng đường hàng trăm ngàn cây số trong khoảng thời gian trên hai ngàn ngày.


304 bức thư ấy không những được sắp xếp theo trình tự thời gian mà còn được xếp cạnh nhau theo thứ tự: Thư đi – thư đến. Tất cả đang được bảo quản vô cùng cẩn thận trong một chiếc hòm sắt 70 x 40 x 40 (cm) mà tôi đang lờ mờ nghĩ: Đó chính là những “lá bùa” của tình yêu!



(Còn nữa)

Lê Va (Vietimes)
read more “Bí mật nào khiến Người như vậy? Tình yêu!”

“Săn hụt” ở làng hoa hậu

Nhận thông tin: Hành Thiện (Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) là “làng sản xuất” ra 2 hoa hậu, 1 á hậu, chúng tôi “bay” ngay xuống vùng quê này khi dư âm cuộc thi HHTG người Việt vẫn còn đang... nóng hôi hổi.

Trong đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Việt 2007, rất nhiều tràng vỗ tay đã vang lên khi thí sinh mang số báo danh 49 Đặng Minh Thu “hiên ngang” tuyên bố rằng, món ăn Việt Nam được cả thế giới biết đến là phở có xuất xứ từ quê hương Nam Định của cô. Và cô còn tiết lộ mình quê ở làng Hành Thiện, quê hương của 2 Hoa hậu Việt Nam Nguyễn Diệu Hoa (1990) và Nguyễn Thu Thủy (1994).

toasang203

Đặng Minh Thu - Á hậu 2 HHTG người Việt 2007.

Không phải “miền gái đẹp”?

Vượt qua thành phố Nam Định khoảng 30 km, chúng tôi có mặt ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường vào một buổi sáng trời mưa tầm tã. Trời mưa to nên đường làng vắng lặng, thoảng có người qua lại thì trùm kín áo mưa, nên đi mãi mà chúng tôi vẫn chưa có cơ may được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các cô gái làng như trong tưởng tượng.

Thấy chúng tôi hỏi thăm về những mỹ nhân Hành Thiện đã từng đăng quang ngôi Hoa hậu, Á hậu của các cuộc thi người đẹp Việt Nam, ông phó Chủ tịch xã Xuân Hồng ngớ người ra: “Thế à! Giờ anh nói tôi mới biết đấy. Chúng tôi có biết thông tin gì về những cuộc thi này đâu. Chắc các cô ấy chỉ là gốc gác ở Hành Thiện thôi chứ không phải người làng đang sinh sống. Người làng hiện tại mà có người đoạt giải lớn như thế, lại chiếu trên truyền hình thì chúng tôi biết ngay”.

65103329-small_112526
Hoa hậu Nguyễn Diệu Hoa cùng chồng và các con.

Quay sang anh Phan Hùng Cường, cán bộ chuyên trách văn hóa xã, chúng tôi cố vớt vát hy vọng tìm được một chút thông tin về vấn đề đang tìm hiểu, nhưng anh Cường cũng lắc đầu thành thật: “Quả thực là chúng tôi không biết gì thông tin về những người đẹp này cả. Chắc chỉ có đời cụ, đời ông, hoặc cùng lắm đời bố của họ là sinh ra ở Hành Thiện thôi. Còn họ hoặc sinh ra ở nơi khác, hoặc rời làng từ khi còn rất nhỏ. Còn nói về lịch sử thì Hành Thiện không nổi danh là “miền gái đẹp” như một số địa danh khác. Con gái Hành Thiện chưa thấy có ai đẹp nổi trội hẳn đến mức phải làm dư luận xôn xao”.

Những người đẹp dòng họ Đặng Xuân

Liên hệ qua điện thoại với anh Nguyễn Quốc Phong, Phó Tổng biên tập báo Thanh Niên, thành viên Ban giám khảo cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Việt 2007, cũng là một người con của làng Hành Thiện, anh cho biết: “Hoa hậu Việt Nam 1994 Nguyễn Thu Thủy có bố là GS.TS Nguyễn Văn Lợi - Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học - thuộc dòng họ Nguyễn ở làng Hành Thiện. Hiện tại ông bà nội của Thu Thủy vẫn đang sinh sống ở quê. Hoa hậu Việt Nam 1990 Nguyễn Diệu Hoa thì có mẹ là người gốc làng Hành Thiện. Ông ngoại cô là GS y khoa Đặng Vũ Hỷ, cậu ruột là GS.VS Đặng Vũ Minh nổi tiếng về tinh thần hiếu học và đỗ đạt cao. Còn Á hậu 2 Đặng Minh Thu vừa đăng quang đêm 2/9 vừa qua thì thuộc dòng họ Đặng Xuân ở Hành Thiện, nhưng đã rời làng xuất cảnh sang Nga từ khi 3 tuổi”.

65103329-small_112528

Nguyễn Thu Thủy đăng quang Hoa hậu 1994.

Nhờ sự dẫn đường và giới thiệu của anh Phan Hùng Cường, chúng tôi tìm đến những người dòng họ Đặng Xuân hiện còn đang sinh sống tại làng. Anh Đặng Xuân Tiến, người duy nhất của họ Đặng Xuân ở lại làng trông coi nhà thờ cụ Đặng Xuân Bảng - ông nội Cố Tổng bí thư Trường Chinh - vui vẻ trao đổi với chúng tôi: “Tôi cũng có theo dõi Cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt 2007 ở trên truyền hình. Khi xem phần dự thi của thí sinh Đặng Minh Thu, thấy giới thiệu quê ở Nam Định, tôi đã ngờ ngợ cô gái này thuộc dòng họ Đặng ở Hành Thiện. Thế nhưng vì thiếu thông tin nên khi tra gia phả tôi không thể tìm ra cô ấy thuộc chi nào, nhánh nào. Tôi ngờ cô ấy là cháu của bà bác ruột đằng bố tôi”.

Vậy là chuyến đi để khám phá “miền gái đẹp” đã trở thành “chuyến săn hụt”.

Nguyễn Thắng

Nguồn Báo Gia đình và Xã hội

Bên ngoài, Á hậu 2 Đặng Minh Thu trông trẻ và xinh xắn hơn những lúc được trang điểm kỹ. Thu hồn nhiên từ giọng nói và trẻ trung trong cách trả lời. Thu đến cùng bố, nhưng khi được mời giới thiệu phụ huynh, cô bé thật thà: “Em đến đây cùng bố nhưng bố em ngại quá nên không chịu lên đây”. Á hậu 2 cho biết, ban đầu cô rất ngại, không định dự thi vì trước đó đã tham gia cuộc thi Hoa hậu Biển, nhưng do được bố mẹ nhiệt tình động viên nên Thu đã quyết định thử sức lần nữa. Và với Thu, điều lớn nhất cô đạt được là sự giao lưu, là những kỷ niệm đẹp với những người bạn.

Theo Giadinh.Net.Vn
read more ““Săn hụt” ở làng hoa hậu”

Một làng...72 tân sinh viên

(SVVN) Năm nay, Hành Thiện có 75 học sinh dự thi và... 72 bạn đỗ đại học, cao đẳng (47 bạn đỗ đại học, 25 bạn đỗ cao đẳng). Đây là một kỷ lục riêng của làng và cũng có thể là kỉ lục của cả nước ở thời điểm này.

Nghèo tiền bạc, không nghèo chữ

Gia đình ông Phạm Ngọc Toán (xóm 7 làng Hành Thiện) là một hộ nông dân nghèo điển hình của làng Hành Thiện. Căn nhà trống huếch trống hoác, chẳng có một đồ vật nào đáng giá, ấy vậy, nhưng "gia tài" của vợ chồng ông lại khiến cả làng phải ngưỡng mộ.

Người dẫn đường cho chúng tôi, ông Nguyễn Đăng Hùng, Chủ tịch Hội khuyến học Hành Thiện: "Vợ chồng nhà ấy giỏi lắm, chỉ có làm ruộng thôi mà nuôi 3 đứa con học đại học. Giờ này sang không biết có ai ở nhà không, hai vợ chồng làm việc quần quật cả ngày từ sáng đến tối, không hở tay lúc nào".

Ruộng ít, cuộc sống của vợ chồng ông Toán phải trông cậy cả vào nghề phụ nấu rượu và vài con lợn nuôi thêm. "Hoàn cảnh gia đình như thế, có năm tôi không dám mong cho các em nó đỗ, ấy thế mà cứ đỗ. Mọi người động viên nhau cố gắng vì nhà mình như thế là giàu chữ đấy, mấy năm nữa giàu cả tiền" - ông cười.

img_0715

Bác Phạm Ngọc Toàn nấu rượu và nuôi lợn - nuôi 3 con học Đại học

Chỉ tay vào tấm ảnh gia đình treo trên tường, ông Toán rạng rỡ khoe: "Đây là ba anh em nó. Cậu cả là Phạm Duy Trọng, học ĐH Nông nghiệp, sắp ra trường; cô hai là Phạm Thị Phương, đang học ĐH Thương mại năm thứ 4; thằng út là Phạm Ngọc Lâm, học ĐH Giao thông - Vận tải năm thứ 2. Chúng nó cứ tự bảo ban nhau mà học thôi".

Mỗi tháng nhận được 2 triệu đồng chắt chiu từ bố mẹ, ba anh em chi tiêu dè sẻn, thuê chung một nhà trọ, hằng tháng ra bến xe nhận gạo bố mẹ gửi lên. Đi lại khó khăn thì khắc phục bằng cách mua vé xe buýt tháng, đi mấy tuyến mới đến được trường. Không có phương tiện nên cũng không thể làm thêm được gì, cậu anh cả thỉnh thoảng lại được bác chủ nhà cho đi theo làm phụ hồ, đánh vôi. "Nhà có 8 phòng trọ nhưng ông chủ lại quý anh em nó nhất, về quê thăm chơi hai lần rồi...".

Ngày trước, tự hào về truyền thống "Đông - Cổ Am, Nam - Hành Thiện" (làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương xứ Đông xưa cùng với làng Hành Thiện của Nam Định có nhiều người học hành đỗ đạt cao), người làng thường nhắc nhau và kể cho khách đến chơi về những giai thoại như cụ Nguyễn Trọng Trù - lúc cày, bừa, giã gạo đều mang theo sách, đỗ cử nhân 25 tuổi; cụ Đặng Huyền đỗ tú tài năm 11 tuổi, cụ Nguyễn Như Bổng đỗ năm 60 tuổi...

Nay đến làng, mọi người lại khoe: nhà Phạm Ngọc Toán, chỉ ở nhà nấu rượu làm ruộng thôi mà nuôi ba con học đại học; nhà Chủ tịch xã Nguyễn Vũ Thịnh, vợ làm đồng nát mà nuôi ba con học đại học; ... Ngôi làng bé nhỏ chỉ với 6.000 dân này luôn đem đến cho người ta những điều ngạc nhiên.


Sức mạnh truyền thống

Ông Nguyễn Đăng Hùng cẩn thận lật giở từng trang giấy đã ố màu, ghi lại truyền thống của ngôi làng địa linh nhân kiệt - nơi sinh ra không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước. Cả một tập tài liệu được giữ gìn cẩn thận với chi tiết từng cái tên, từng câu chuyện, từ thời Nho học với người "khai hoa" đầu tiên cho làng - cụ Nguyễn Thiện Sỹ (sinh năm 1501, đỗ cử nhân năm 1522) cho đến danh sách những học sinh trúng tuyển kỳ tuyển sinh 2008 - năm làng có tỉ lệ đỗ cao nhất từ trước đến nay.

Người thầy giáo - Hiệu trưởng trường chuyên của huyện năm nào giờ đã có thâm niên hơn 10 năm làm công tác khuyến học của làng. ông Hùng kể: "Ngay từ năm 1994, trước hai năm ra đời Hội khuyến học của Trung ương, chúng tôi đã có Hội khuyến học của làng Hành Thiện. Năm vừa rồi, Hội đã chi 8.292.000 đồng làm phần thưởng và quà cho các cháu học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, học sinh đỗ đại học, cao đẳng.

Quà động viên thì giá trị nhỏ thôi nhưng tổ chức trang trọng. Mỗi dịp có khen thưởng học sinh giỏi hay học sinh đỗ đại học làng lại như ngày hội vậy. Tôi đọc trên loa tên từng cháu một, con ông bà nào, ở xóm nào. Dân làng nghe tên con phấn khởi lắm. Nhà nào chưa được thì lại phấn đấu để được. Chúng tôi cứ tích cực kiên trì như vậy".


hoc20sinh20cap20320tan20truong

Học sinh cấp 3 tan trường

Dân Hành Thiện tự hào về truyền thống hiếu học và đỗ đạt cũng có nghĩa là tự hào về cái tên có từ thời Lê Trung Hưng thứ nhất - năm 1454 của làng mình (Hành Thiện là ngôi làng cổ thuộc hành lang phủ Thiên Trường).

"Cái đặc biệt nhất của làng là quan niệm của các cụ về chuyện học. Học không chỉ để làm ra tiền tài, của cải cho xã hội và bản thân mà còn để trở thành những con người có hiểu biết sâu rộng hơn về đạo lý làm người, gần với thánh hiền nhiều hơn. Học để có tri thức, sống hợp với luân thường đạo lý, với xã hội và với thời thế. Đồng thời học trở thành cái "nghề" của làng, ngoài hai nghề chính là nông nghiệp và dệt.

Những buổi sớm mai lẫn trong tiếng sáo diều vi vu, tiếng đập vải của các bà các chị là tiếng đọc bài ê a của các trò nhỏ. Cả làng cùng học. Hành Thiện có nghĩa là làm điều lương thiện, ông Hùng giải thích.


"Luyện thi" kiểu Hành Thiện

Lý giải về tỉ lệ đỗ đại học cao hiếm thấy của làng Hành Thiện, thầy Hoàng Trọng Sâm, Hiệu trưởng Trường THPT Xuân Trường - ngôi trường có rất đông con em Hành Thiện theo học, "bật mí": "Truyền thống có vai trò đặc biệt quan trọng nhưng chúng tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề định hướng nghề nghiệp và tổ chức ôn tập cho học sinh. Trong quá trình dạy và học, bản thân lãnh đạo chúng tôi phải nắm được tình hình học sinh qua các đợt thi và định hướng cho các em. Thí dụ, thi khối A phải 21 điểm trở lên và nên chọn những trường nào...

Bên cạnh đó, chúng tôi phải thường xuyên cập nhật thông tin về điểm chuẩn của các trường hằng năm, dự báo cho học sinh và trước kỳ thi bao giờ cũng có tư vấn kỹ càng cho các em. Trong việc dạy học cũng phải linh hoạt. Cách thức thay đổi thì nội dung và phương pháp cũng phải thay đổi theo ngay. Thi tự luận thì ôn theo kiểu tự luận, tức là giải đề dài, khó; thi trắc nghiệm thì học hết sức cơ bản và chắc, giải những đề ngắn, một bài tập có thể chia thành 6, 7 bài nhỏ khác nhau. Có phương pháp để theo đúng thời cuộc, trong cách dạy của thầy và cách học của trò".

Niềm tự hào của ông Sâm chính là đội ngũ giáo viên ở trường. "Quan trọng nhất ở giáo viên là phải có kinh nghiệm. Trường tôi có 3 "bộ" giáo viên "ngon lành". Thông thường, Toán, Lý, Hóa được môn này sẽ "hỏng" môn kia, nhưng chúng tôi được cả ba vì cực kỳ chú trọng việc đào tạo nguồn kế cận trong chuyên môn.

Người ta chỉ hay nói đến kế cận trong lãnh đạo, nhưng ông Sâm lại có quan điểm cho rằng, kế cận trong chuyên môn mới cực kỳ quan trọng: "Hiện tại đội ngũ giáo viên trẻ, là học sinh cũ của trường rất đông và có kiến thức tốt. Chúng tôi giao chỉ tiêu cho tổ chuyên môn mỗi năm phải kèm một người, sao cho luôn có nhiều người dạy giỏi. Phải xem nếu thầy/cô này nghỉ thì ai có khả năng thay ngay được"...

Kiều Hải - Quỳnh Phương

Làng Hành Thiện là một địa danh nổi tiếng về số người học hành giỏi giang, thi cử đỗ đạt: 88 giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ và trên 600 người có bằng cử nhân (thống kê chưa đầy đủ). Trong khi đó, dân số của làng chỉ khoảng trên 6.000 người. Những năm gần đây, năm nào con em của làng cũng thi đỗ vào đại học, cao đẳng với tỉ lệ cao nhất nhì của cả nước.

Theo Sinh viên Việt Nam

read more “Một làng...72 tân sinh viên”

Chuyện học ở ngôi làng hình cá chép

12_giadinh1291

Gia đình anh Phạm Ngọc Toán, chị Nguyễn Thị Thanh

cấy 14 sào ruộng nuôi ba con học đại học.

Một làng có đến 72 người thi đỗ đại học, cao đẳng trong tổng số 75 người đi thi đại học năm 2008. Có gia đình, bố mẹ chỉ thuần tuý là những người nông dân, cấy đến 14 sào ruộng để nuôi 3 anh em cùng học đại học. Đó là những câu chuyện có thật ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định, một ngôi làng nổi tiếng về truyền thống học tập từ bao đời nay.

Cấy 14 sào ruộng nuôi 3 con học đại học

Theo lời chỉ dẫn tận tình của một người dân trong làng Hành Thiện, chúng tôi đến "xông đất gia đình khoa cử" Phạm Ngọc Toán ở xóm 7 Hành Thiện. Ngôi nhà thật đơn sơ, nhỏ nhắn nhường lại khoảng sân rộng trước nhà để gieo mạ, trồng rau và nuôi lợn. Anh Toán cười rạng rỡ đón chúng tôi.

Gia đình anh Phạm Ngọc Toán vẫn được người dân xã Xuân Hồng ngợi ca là gia đình điển hình cho tấm gương vượt khó học giỏi ở làng quê giàu truyền thống này. Mặc dù chỉ có nghề nấu rượu phụ thêm thu nhập gia đình với 14 sào ruộng trồng lúa mà gia đình anh Toán đã nuôi 3 cháu ăn học đại học.

Cháu đầu tiên là Phạm Duy Trọng đã tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp năm 2008, hiện nay đang công tác tại Viện Bảo vệ thực vật tại huyện Từ Liêm. Cháu Phạm Thị Phương hiện đang là sinh viên năm thứ 4 đại học Thương Mại, cháu Phạm Ngọc Lâm là sinh viên năm thứ 3 Đại học GTVT.

Anh Toán và chị Nguyễn Thị Thanh, vợ anh năm nay đã 51 tuổi, nhưng vẫn còn rất khỏe, da đỏ hồng hào. Sáng dậy sớm từ 4h tờ mờ đất, hai vợ chồng ra đồng, mang cơm nắm ở lại đồng buổi trưa luôn. Tối đến, xong việc đồng áng, nấu rượu cũng phải 11, 12h đêm. Vậy mà nhà anh còn cố nuôi thêm lứa lợn nái, xuất bán mỗi lứa hơn chục con, để mong có thể bỏ ra số tiền hai triệu đồng mỗi tháng nuôi ba người con học đại học.

Trong ngôi nhà đơn sơ của vợ chồng anh Toán, chị Thanh không có lấy một thứ tài sản vật chất nào đáng giá. Có lẽ, thứ quý giá nhất chính là những tấm giấy khen về thành tích học tập của các cháu cùng tấm bằng công nhận Gia đình hiếu học năm 2007 của UBND xã Xuân Hồng.

Không riêng gia đình anh Phạm Ngọc Toán, các gia đình có 3, 4 con cùng học đại học và lập nghiệp tại Hà Nội trở thành chuyện phổ biến tại làng Hành Thiện. Như gia đình bác bảo vệ khu Nhà tưởng niệm Cố Tổng Bí thư Trường Chinh-Nguyễn Viết Điều hiện cũng có 4 người con đang học đại học và cao đẳng...

Đất của "nghề học"

Chúng tôi gặp thầy Nguyễn Đăng Hùng trước đây từng là thầy dạy Toán của Trường THPT Xuân Hồng đã nghỉ hưu, hiện đang giữ chức Hội trưởng Hội khuyến học làng Hành Thiện.

Theo thầy Hùng, ngôi làng Hành Thiện có hình dáng đặc biệt, hình con cá chép, được chia thành 18 dong theo cách gọi dân gian hay 18 xóm với hơn 6.000 dân đang sinh sống. Thầy chậm rãi lật giở từng trang cuốn sổ ghi chép hết sức cụ thể về tên tuổi, địa chỉ và chức vụ của từng người dân làng Hành Thiện đã đỗ đạt và thành danh từ năm 1945 trở lại đây.

Cuốn sách mang tên Tri thức thời tân học làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng. Tất cả tư liệu trong cuốn sách này đều do thầy cùng với Phó Giáo sư Sử học Đặng Đức An đối chiếu lịch sử và sưu tầm. Số học sinh đỗ đại học, cao đẳng người làng Hành Thiện những năm gần đây luôn có tỉ lệ tăng dần.

Năm 2007, có 63 trên tổng số 78 người dự thi đỗ đại học, cao đẳng. Năm 2008, số người đỗ đại học, cao đẳng đã là 72 người trong tổng số 75 người dự thi. Cũng trong năm này, số học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh của làng lần lượt là 94 và 25 người.

Từ năm 1945 cho đến năm 2005, làng Hành Thiện có tới 16 người từng giữ các chức vụ từ Tổng Bí thư đến Thứ trưởng các Bộ, tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam có 6 người, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh hùng lao động 2 người, danh hiệu Giáo sư, Phó Giáo sư là 45 người, danh hiệu Tiến sỹ và Thạc sỹ là 166 người. Trí thức có bằng đại học lên đến 1.500 người.

Không chỉ vang danh trong nước, làng Hành Thiện còn đóng góp cho đất nước nhiều học sinh đoạt giải quốc tế. Giáo sư Vũ Khiêu cũng đã từng tự hào nói về đất Hành Thiện: Đây là đất có nhiều nghề làm ruộng, dệt vải và nghề học. Đêm đêm có thể nghe thấy tiếng sáo, tiếng đập vải, xen lẫn là tiếng học của các cậu học trò.

Để khuyến khích con em trong làng chăm chỉ học hành, Hội khuyến học làng Hành Thiện đã được thành lập. Nhiều người con Hành Thiện xa quê vẫn đều đặn gửi tiền đóng góp cho quỹ khuyến học của làng ngày càng phát triển.

Nói về phương pháp học và thi đại học, thầy Hoàng Trọng Sâm, Hiệu trưởng Trường THPT Xuân Hồng, nơi đang có rất nhiều học sinh người làng Hành Thiện theo học cho hay: Trường luôn quan tâm đến việc học và dạy học, đặc biệt là hướng nghiệp cho học sinh ngay từ những năm đầu học cấp 3...

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất giúp học sinh vượt qua các kỳ thi với kết quả tốt vẫn là sự cố gắng học hành, phát huy truyền thống hiếu học từ chính bản thân các học sinh


Ng.Hương - Cao Hồng

Nguồn Công An Nhân Dân

read more “Chuyện học ở ngôi làng hình cá chép”

Lai lịch Hành Thiện

Sự duyên cách làng ta trước kia không rõ, duy về đời nhà Lý (khoảng thế kỷ 12) thì ấp ta thuộc làng Giao Thủy, phủ Hải Thanh (xã Giao Thủy trước ở tại Quảng Lăng, Quán Các, sau cũng bị lở xuống sông, rồi di cư đến phía Nam xã Lạc Quần và đổi là làng Nghĩa Xá, phủ Hải Thanh, đến đời nhà Trần thì đổi là Thiên Trường). Khi thuộc nhà Minh thì gọi là Phụng Hóa, đến triều Tự Đức, nhà Nguyễn đổi là Xuân Trường. Đời nhà Trần, ấp ta có vườn kim quất (cam ngọt) các vua nhà Trần thường hay đến chơi, nên đặt tên là Hành Cung Trang, đến đời Hậu Lê (thế kỷ 16) vì nước sông Nhị Hà xung khích bị lở xuống sông, các cụ Tổ ta mới di cư xuống ấp mới này (tức là xã Hành Thiện bây giờ) chia ra làm hai trang, phía Tây Bắc gọi là Trang Dũng Nhuệ (triều Tự Đức gọi là Dũng Nghĩa), nay thuộc huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình; phía Đông Nam gọi là Trang Hành Cung thuộc xã Giao Thủy (giao nghĩa là keo, nên tục gọi Dũng Nghĩa là Keo trên, làng ta là Keo dưới). Đến triều Minh Mạng (thế kỷ 19) đổi là Xã Hành Cung, đến năm Quý Mùi niên hiệu Minh Mạng thứ tư (1823) mới đổi là Hành Thiện.

Vậy thì làng ta có xã danh từ triều Lý đến nay gần 800 năm (bằng cứ vào việc dựng chùa) mà khi di cư đến đây là từ triều Hậu Lê, đã được gần 400 năm vậy.
Kiểu đất hình như con cá chép, bốn bên có nước, sông con chảy quanh, bên kia sông con, về phía Nam có một khoanh ruộng mạ thuộc xã Ngọc Cục, nay là phủ lỵ đóng tại đấy, hình như cái nghiên mực, lại bên kia sông còn về phía Đông thuộc xã Thượng Phúc, có một miếng đất dài và nhọn nằm ngay cạnh sông, hình như cái bút tẩm thủy, triều sang làng ta, khoảng ruộng sứ thần ở phía tây bên kia sông con, hình như cái bảng, vì có mộ Tổ họ Nguyễn để ở đây có dựng bia nên tục gọi là ruộng bia. Theo thuyết phong thủy, thì làng ta cũng là một nơi danh thắng ở đất Tiên Châu này vậy.

Theo hình thể khu đất làng ngoài, thì đầu cá ở về cuối làng (phía Nam) có Miếu và chợ bên cạnh miếu có trũng xuống một chỗ hình như cái giếng nhưng nông, gọi là mắt cá, trên đầu làng bên Vũ chỉ, cũng trũng xuống một chỗ độ bằng cái thúng, gọi là rốn cá (tưởng truyện mắt cá và rốn cá hễ vô ý động chạm đến thì làng động, xẩy ra sự không may), phía Tây làng tức là lối trước là bụng cá, phía Đông làng tức là lối sau gọi là sống lưng cá, từ đầu làng lên đến chùa là đuôi cá, dân cư chia làm từng giong hình như khúc cá.

Đông giáp xã Thượng Phúc, Tây và Tây Bắc giáp xã Dũng Trí và sông Nhị Hà, Bắc giáp xã Hạc Châu, Nam giáp xã Ngọc Cục.
Dân cư ở làm 2 khu: Làng ngoài và làng trong. Nguyên trước chỉ có làng ngoài tức là nơi thổ cư kiểu hình cá chép, sau mới di cư vào làng trong về phía Tây Nam sông con, giáp xã Ngọc Cục, và một khu trong cư công điền là trại Chí Thiện giáp xã Bùi Chu.

Làng ngoài chia làm 14 giong, giong nọ cách dong kia 60 ngũ, mỗi going chia làm hai xóm, nửa về phía Tây là Xóm trước, nửa về phía Đông là xóm sau, đường cái đi chung quanh làng, mỗi giong đều có đường nhỏ, xóm trước đi thông với xóm sau. Trong mỗi going chia ra từng thổ cư một, mỗi thổ cư có một sào 5 miếng đất và ao, tuy có going dài going ngắn, nhưng số thổ cư chỉ nhất định là 1 sào 5 miếng mà thôi.

Làng trong, thường gọi là Xóm trong, ở về phía Tây cách làng ngoài 1 con sông nhỏ, gọi là xóm Phú Thọ, chia ra làm 4 xóm nhỏ, cũng có từng going, địa thế tuy nhỏ hẹp, nhưng sinh tụ ngày một đông đúc, cũng là một nơi phồn thịnh.

Theo Hành Thiện Xã Chí

Đặng Xuân Viện - 1934


read more “Lai lịch Hành Thiện”

Hành Thiện, đất “bút nghiên”

Ký ức của tôi về làng Hành Thiện gắn với tuổi 27 – 28, hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Năm 1946, khi tôi dạy Anh văn ở trường Trung học Nguyễn Khuyến (Nam Định) thì chiến sự bùng nổ vào buổi tối 19 tháng 12. Thành phố tiêu thổ, vây quân đội Pháp bên trong. Các hoạt động giáo dục văn hóa di tản ra vùng nông thôn.

Các thầy trường Nguyễn Khuyến cùng ông hiệu trưởng Phó Đức Tố đi một chuyển đò về làng Ngọc Cục, cạnh Hành Thiện, cách thành phố khoảng hai chục cây số về phía đông nam. Văn phòng trường ở Ngọc Cục.

Tôi nhớ có mấy bữa dạy ở nhà thờ xứ, lèo tèo chưa được chục học trò. Tôi cũng có dịp đi Hành Thiện luôn, vì có học trò cùng gia đình tản cư bên đó. Nhất là đất lành chim đậu, có một số văn nghệ sĩ tạm trú bên đó, đặc biệt cóVũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, …

Có cuộc họp văn hóa kháng chiến tỉnh Nam Định ở Hành Thiện, hồi đó tôi làm Chủ tịch Hội. Họp xong, vợ anh Trần Lê Văn, cô gái Thái Thuận Châu lên kể chuyện đánh tây ở Tây Bắc, anh Văn phiên dịch cho vợ. Anh bạn nhạc sĩ là Tạ Phước cũng về tản cư về Hành Thiện ít lâu.

Vì sợ quân Pháp đi tuần trên sông Ninh Cơ (nhánh sông Hồng) đổ bộ càn quét Ngọc Cục – Hành Thiện, trường Nguyễn Khuyến dời đi cách 7 km, tới Trà Bắc, sau chuyển đi Yên Mô ở Ninh Bình.

Nhớ đến Hành Thiện là nhớ đến làng khoa bảng. Các cụ cho phát như vậy là cho đất cát, phong thủy. Làng Hành Thiện thuộc phủ Xuân Trường hình con cá chép (Quan niệm xưa đi thi đỗ là cá chép vượt Vũ môn. Sách Hán có câu: “Vũ môn tam cấp lãng”. Theo Đào Duy Anh, tục ngữ ta cũng có câu: “Cá nhảy Vũ môn” để chỉ học trò đi thi.) .

Hành Thiện được sông đào Bùi Chu (chảy ra sông Ninh Cơ) bao bọc, cá thả hồ vẫy vùng. Đầu cá ở cuối làng phía chợ, cạnh miếu có mắt cá (cái giếng), nếu động vào là đau mắt cả làng. Đầu làng là rốn cá (một chỗ trống), động vào là làng có gái chửa hoang. Phía nam làng có 1 ruộng mạ hình cái nghiên mực, phía đông có mảnh đất dài hình cái đầu bút lông. Do đó mà Hành Thiện có sự nghiệp bút nghiên.

Phải qua nhiều nỗi gian truân, Hành Thiện mới định cư được ở mảnh đất “địa lý” đẹp [như] ngày nay. Vào thời nhà Lý, thế kỷ XI, các cụ tổ sống ở làng Hồ Xá (sau này thuộc huyện Nam Trực, Nam Định), giồng [trồng] loại Kim quất, - vua Trần thường đến chơi nơi này, nên có tên là Hành Cung trang. Đến thế kỷ XIV, Hồ Xá lở xuống sông Hồng. Các cụ di cư ra ngoài đê , lập làng mới. Làng này sau tách ra 2 trang, trang phía Bắc nay thuộc đất Thái Bình, gọi là Keo Trên, trang phía nam là Keo Dưới (còn gọi là trang Hành Cung). Đến thế kỷ XVI, đất lại lở, trang Hành Cung di xuống đất Hành Thiện hiện tại.

Đất học xưa có “Xứ Đông Cổ Am, xứ Nam Hành Thiện”. Hành Thiện có 7 vị đại khoa (Phó Bảng, Tiến sĩ), 92 cử nhân, 210 tú tài. Thời Nguyễn, đứng đầu toàn quốc về khoa bảng: Hành Thiện (88 vị đỗ đại khoa và cử nhân, trong đó đại khoa 7 vị), Đông Ngạc ở Hà Đông (42 đại khoa và cử nhân, trong đó đại khoa 9 vị), Cổ Am ở Hải Dương (18 đại khoa và cử nhân, trong đó đại khoa 2 vị). Từ thời Pháp thuộc cho đến nay (2005), số tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư Hành Thiện cũng rất nhiều, ở nước ngoài cũng không hiếm.

Xin kể vài vị trí thức Hành Thiện nổi tiếng về nhân cách. Cụ Đặng Mấu và cụ Đặng Hữu Bằng đi học ở Nhật trong phong trào Đông Du, cụ Đặng Kinh Luân sáng lập trường Đông Kinh nghĩa thục, ông Nguyễn Thế Truyền (kỹ sư hóa ở Pháp) đã ngang nhiên tát 1 Tổng đốc hống hách [(Vi Văn Định, Tổng đốc Thái Bình)] ở bến Tân Đệ (Nam Định).

Sỡ dĩ Hành Thiện trở thành “đất bút nghiên” là vì đã có truyền thống học và môi trường văn hóa từ lâu đời. Từ trước 1945, có nhiều tế lễ, hội hè đình đám, các hội tư nhân như Thi xã (hội thơ, năm 1931, nữ sĩ tương Phố tham gia các buổi ngâm thơ ở nhà nữ sĩ Mộng Lan), hội cổ nhạc, hội tân nhạc (đặc biệt các năm 1946 – 48, hội tụ nhiều nghệ sĩ). Bác sĩ Phan Thanh Hoài, gốc Hành Thiện kể lại 1 cử chỉ khuyến khích học tập như sau: Bác sĩ Đặng Vũ Lạc bỏ tiền ra xin Công xứ cho xây trường tiểu học 6 lớp ở làng Hành Thiện (các làng chỉ có trường sơ học 3 lớp, học lên nữa phải học ở trường huyện); ông quyên các nhà giàu ở trong làng đóng tiền mua ruộng khuyến học, cho cấy rẽ, lấy tiền làm học bổng cho học sinh nghèo, - khi tốt nghiệp ra đi làm, phải hoàn lại tiền cho quỹ. Do đó, nhiều con nhà nghèo học được lên đại học, như bác sĩ Nguyễn Sĩ Quốc chỉ là con 1 ông bán dầu rong.

Một điểm cuối cùng là tinh thần tôn trọng thầy học. Các môn sinh đóng tiền mua ruộng hoặc biếu thầy, hoặc lấy hoa lợi tu bổ nhà thờ, mồ mả, giỗ Tết thầy. Ngay cả thời Tây học, truyền thống vẫn còn. Từ 1975, sau chiến tranh, học trò cũ liên trường Trung học Nam Định – Trà Bắc – Yên Mô (trong đó có Hành Thiện) thường xuyên họp ở Mỹ [?] để nhớ lại những kỷ niệm đẹp 1 thời học trò. Bản thân tôi cũng rất cảm động nhận được tin tức và thư từ của 1 số học sinh cũ người Hành Thiện. Thầy trò tóc đã bạc, tình nghĩa vượt qua những hàng rào tư tưởng, nếu có.

2005

HỮU NGỌC , NHỮNG NẺO ĐƯỜNG VĂN HÓA

NXB GIÁO DỤC, tháng 4 – năm 2006.

read more “Hành Thiện, đất “bút nghiên””

Làng Hành Thiện online...

Bản đồ làng Hành Thiện
Bản đồ làng Hành Thiện

Ngôi làng nhỏ ven sông Ninh Cơ (sông Cửa Lạch), một chi lưu của sông Hồng Hà chảy suốt tỉnh Nam Định từ Bắc xuống Nam, rồi đổ ra Cửa Lạch Giang, ra biển.

Một ngôi làng gắn liền với những truyền thống tốt đẹp, được vua Minh Mạng ban tặng cho làng 4 chữ sơn son thiếp vàng "Mỹ tục khả phong", và đổi tên thành làng Hành Thiện

Ngôi làng với những nét độc đáo thật đặc biệt. Từ thời lập làng, các bậc tiền nhân đã xây dựng rất công phu, thể hiện trình độ học vấn và sự uyên thâm của người xưa. Ngôi làng cổ mang dáng hình con cá chép, như ước vọng của người xưa mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với dân làng. Phải chăng vì thế, ở Hành Thiện, đời nào cũng xuất hiện những con người kiệt xuất, làm rạng danh quê hương, đất nước; đến nỗi, dân gian còn truyền tụng câu ca dao "Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện"

Với truyền thống của mình, Hành Thiện vẫn còn lưu giữ được những di tích lịch sử, gắn liền với lịch sử dân tộc như chùa Keo Hành Thiện, chùa Đinh Lan, các nhà thờ họ, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh,...

Cùng với sự phát triển của làng, người Hành Thiện đã tỏa đi khắp đất nước, khắp năm châu, nhưng vẫn luôn giữ được những nét riêng của mình. Các hội đồng hương hoạt động rất hiệu quả trong việc nối kết những người dân Hành Thiện.

Với việc phát triển của CNTT, hi vọng blog Làng Hành Thiện sẽ là nơi để những người dân Hành Thiện có thể thỏa nỗi nhớ quê hương...

Những tài liệu, bài viết về làng được sưu tập, đăng tải tại đây sẽ giúp cho những người con của Hành Thiện, bạn bè hiểu rõ hơn về ngôi làng này.

Trang tin về làng Hành Thiện được đăng tải tại:

- Blogger: http://langhanhthien.blogspot.com/

- Wordpress: http://langhanhthien.wordpress.com

- Facebook: http://www.facebook.com/langHanhThien

Và nhiều trang mạng khác


Mọi đóng góp ý kiến, ủng hộ, tham gia xin liên hệ email: hanh_thien_village@yahoo.com hoặc kid1485@gmail.com

Tài khoản tại Nam Định Online http://namdinhonline.net là Hanh_Thien_villager

read more “Làng Hành Thiện online...”