Đất khoa bảng, quê mỹ nhân

Những tưởng câu nói: “Bắc Hà, Hành Thiện, Quan Diễn, Quỳnh Lôi” nói về các “miền gái đẹp” như vùng đất sông Lô nhưng hóa ra đây lại là câu vinh danh đất học và khoa bảng. Một làng có truyền thống hiếu học và nhiều người thành đạt, lại là nơi có lắm mỹ nhân...

Trong đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Việt 2007, có một điều bất ngờ đầy thú vị là một người con làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, vùng đất nổi danh khoa bảng trở thành Á hậu 2, đó là Đặng Minh Thu. Trước đấy, hai Hoa hậu Việt Nam Nguyễn Diệu Hoa (1990) và Nguyễn Thu Thủy (1994) cũng là người quê ở Hành Thiện.


Đường vào xóm 7 làng Hành Thiện

Quê hương những người đẹp

Vượt qua thành phố Nam Định khoảng 30 km, chúng tôi có mặt ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường vào một buổi sáng. Trời mưa to nên đường làng vắng lặng, thoảng có người qua thì lại trùm kín áo mưa nên đi mãi mà chúng tôi vẫn chưa có cơ may được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các cô gái làng.

Theo như chúng tôi được biết thì Hoa hậu Việt Nam 1994 Nguyễn Thu Thủy có bố là Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Lợi - Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học - thuộc dòng họ Nguyễn ở làng Hành Thiện.

Hiện tại ông bà nội của Thu Thủy vẫn đang sinh sống ở quê. Hoa hậu Việt Nam 1990 Nguyễn Diệu Hoa thì có mẹ là người gốc làng Hành Thiện. Ông ngoại cô là Giáo sư y khoa Đặng Vũ Hỷ, cậu ruột là Giáo sư - Viện sĩ Đặng Vũ Minh nổi tiếng khắp vùng về tinh thần hiếu học và đỗ đạt cao.

Còn Á hậu 2 Đặng Minh Thu vừa đăng quang đêm 2/9 thì thuộc dòng họ Đặng Xuân ở Hành Thiện. Rời làng xuất cảnh sang Nga từ khi 3 tuổi, ký ức về quê hương của Thu rất ít nên cô chỉ biết quê mình ở Nam Định, thuộc họ Đặng Xuân ở làng Hành Thiện.

Thấy chúng tôi hỏi thăm về những mỹ nhân Hành Thiện đã từng đăng quang ngôi hoa hậu, á hậu của các cuộc thi người đẹp Việt Nam, ông Phó chủ tịch xã Xuân Hồng ngớ người ra: “Thế à! Giờ chị nói tôi mới biết đấy. Chúng tôi có biết thông tin gì đâu. Chắc các cô ấy chỉ là gốc gác ở Hành Thiện thôi chứ không phải người sinh sống ở làng. Người làng hiện tại mà có người đoạt giải lớn như thế, lại phát trên truyền hình thì chúng tôi biết ngay”.

Anh Phan Hùng Cường, cán bộ chuyên trách văn hóa xã cũng lắc đầu thành thật: “Quả thực là chúng tôi không biết gì thông tin về những người đẹp này cả. Chắc chỉ có đời cụ, đời ông, hoặc cùng lắm đời bố của họ là sinh ra ở Hành Thiện thôi. Còn họ hoặc sinh ra ở nơi khác, hoặc rời làng từ khi còn rất nhỏ. Còn nói về lịch sử thì Hành Thiện không nổi danh là “miền gái đẹp” như một số địa danh khác. Con gái Hành Thiện chưa thấy có ai đẹp nổi trội hẳn đến mức phải làm dư luận xôn xao”.

Nhờ sự dẫn đường của anh Phan Hùng Cường, chúng tôi tìm đến những người dòng họ Đặng Xuân hiện còn đang sinh sống tại làng. Anh Đặng Xuân Tiến, người duy nhất của họ Đặng Xuân ở lại làng trông coi nhà thờ cụ Đặng Xuân Bảng - ông nội cố Tổng Bí thư Trường Chinh - vui vẻ trao đổi với chúng tôi: “Tôi cũng có theo dõi cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt 2007 trên truyền hình. Khi xem phần dự thi của thí sinh Đặng Minh Thu, thấy giới thiệu quê ở Nam Định, tôi đã ngờ ngợ cô gái này thuộc dòng họ Đặng ở Hành Thiện. Thế nhưng vì thiếu thông tin nên khi tra gia phả tôi không thể tìm ra cô ấy thuộc chi nào, nhánh nào.

Đặng Minh Thu - cô gái đất khoa bảng

là ứng cử viên đại diện Việt Nam thi Hoa hậu Thế giới.

Nhờ sự dẫn đường của anh Phan Hùng Cường, chúng tôi tìm đến những người dòng họ Đặng Xuân hiện còn đang sinh sống tại làng. Anh Đặng Xuân Tiến, người duy nhất của họ Đặng Xuân ở lại làng trông coi nhà thờ cụ Đặng Xuân Bảng - ông nội cố Tổng Bí thư Trường Chinh - vui vẻ trao đổi với chúng tôi: “Tôi cũng có theo dõi cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt 2007 trên truyền hình. Khi xem phần dự thi của thí sinh Đặng Minh Thu, thấy giới thiệu quê ở Nam Định, tôi đã ngờ ngợ cô gái này thuộc dòng họ Đặng ở Hành Thiện. Thế nhưng vì thiếu thông tin nên khi tra gia phả tôi không thể tìm ra cô ấy thuộc chi nào, nhánh nào.

Họ Đặng ở Hành Thiện có 4 dòng Đặng Đức, Đặng Khắc, Đặng Xuân, Đặng Ngọc. Còn như dòng họ Đặng Vũ bên ngoại của Hoa hậu Nguyễn Diệu Hoa thì là dòng con nuôi họ Đặng. Hiện tại, gia phả dòng họ Đặng Xuân có chép đến đời thứ 11, còn gia phả họ Đặng đại tôn thì ghi đến đời thứ 18. Gia phả chỉ ghi đến đời ông, thậm chí không có cả tên bố nên việc tìm ra tên con cái là rất khó.

Còn nói về con gái đẹp trong dòng họ Đặng Xuân thì hầu như thế hệ nào cũng có. Thế nhưng các cụ chỉ chú ý ghi chép về truyền thống hiếu học và thành đạt của dòng họ chứ chẳng ai ghi chép về sắc đẹp của các cô gái họ Đặng cả. Vì thế đến nay chúng tôi chỉ nghe phong thanh các bậc cha chú vui miệng trò chuyện về một bà, một cô nào đó rất đẹp trong họ nhưng chưa bao giờ được diện kiến. Vì những người đó hoặc là già cả, đã mất, hoặc là rời làng đi nơi khác từ rất lâu rồi”.

Luôn coi việc học tập là một nghề

Theo ông Nguyễn Đặng Hùng thì thời phong kiến, Hành Thiện có 419 người đỗ đạt, trong đó có đến 7 người đỗ đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Làng có 4 người làm quan thượng thư, 4 người là tuần phủ, 4 người là tổng đốc, 69 người làm tri phủ, tri huyện...

Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, Hành Thiện có 45 người là giáo sư, phó giáo sư; 166 người là tiến sĩ, thạc sĩ; 1.493 người tốt nghiệp đại học.

Hành Thiện còn là nơi xuất thân của 16 cán bộ cao cấp, đảm nhiệm các chức vụ từ Thứ trưởng đến Tổng bí thư của Đảng; 7 tướng lĩnh quân đội; 3 Anh hùng LLVTND.

Đặc biệt, đây còn là quê hương của đồng chí Đặng Xuân Khu, tức Trường Chinh, là Tổng Bí thư của Đảng nhiều năm, nhà lãnh đạo kiệt xuất, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Để có được truyền thống khoa bảng và hiếu học nổi danh khắp nơi là do người Hành Thiện luôn coi việc học tập là một nghề bên cạnh nghề làm ruộng và dệt vải. Người làng không sợ thiếu tiền của mà chỉ sợ thiếu chữ. Vì vậy người Hành Thiện đều cố công học chữ để làm người sống có đạo lý, có tri thức, phục vụ xã hội.

Có những người như ông Nguyễn Trọng Trù cảnh nhà hàn vi, nhờ tranh thủ học trong những lúc đi cày, đi bừa, giã gạo mà thi đỗ tú tài năm 19 tuổi, 25 tuổi thì đỗ cử nhân. Ông Nguyễn Đăng Thiện, đỗ tú tài năm 19 tuổi nhưng vẫn miệt mài theo đuổi đèn sách đến năm 60 tuổi mới thi đỗ cử nhân.

Ông Đặng Vũ Tường, 4 lần thi đỗ tú tài, đến 53 tuổi thì đỗ cử nhân và được bổ nhiệm làm quan tri huyện. Theo quy định ngày ấy thì quan lại không được phép dự thi tiếp nên ông đã treo ấn từ quan để về quê tiếp tục sách bút và vào kỳ thi Hội năm 64 tuổi.

Người dân Hành Thiện vẫn nhớ về thần đồng Đặng Xuân Bảng (ông nội đồng chí Trường Chinh) như một điển hình cho truyền thống hiếu học và khoa bảng của làng. Thời đó, ông Bảng nhà nghèo, không có tiền theo học thầy mà chỉ học cha là ông Đặng Viết Hòe mà đỗ Tiến sĩ năm 29 tuổi. Biết chuyện, Vua Tự Đức cảm phục đã ban cho bố con ông 4 chữ “Giáo tử đăng khoa” (Dạy con thi đỗ).

Những tưởng câu nói: “Bắc Hà, Hành Thiện, Quan Diễn, Quỳnh Lôi” nói về các “miền gái đẹp” như vùng đất sông Lô nhưng hóa ra đây lại là câu vinh danh đất học và khoa bảng. Một làng có truyền thống hiếu học và nhiều người thành đạt, lại là nơi có lắm mỹ nhân... Thật đúng là hiếm quá!


Hải Châu

Theo báo CAND


read more “Đất khoa bảng, quê mỹ nhân”

Thiền Sư KHÔNG LỘ

Thơ Không lộ Thiền sư

Thiền sư Không Lộ

(? - 1119)

(Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)

Sư họ Dương, không rõ tên thật là gì, quê ở làng Hải Thanh. Ông cha chuyên nghề chài lưới, đến đời Sư mới bỏ nghề ấy đi tu đạo Phật. Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Sư theo Thiền sư Lôi Hà Trạch xuất gia, cùng làm bạn với Thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh.

Phong cách Sư thoát tục, ăn mặc thế nào xong thôi, không vướng mắc vật chất thường tình, chỉ tinh chuyên Thiền định, trải bao năm tu tập, ăn cây mặc cỏ, quên cả thân mình.

Sau khi đắc đạo, Sư có thể bay trên không, hoặc đi trên mặt nước, cọp thấy phải cúi đầu, rồng gặp cũng nép phục. Những pháp thuật thần bí của Sư không đo lường được.

Đến ngày 3 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ mười (1119) đời Lý Nhân Tông, Sư viên tịch. Môn đồ làm lễ hỏa táng, thu xá-lợi, xây tháp thờ ở trước chùa Nghiêm Quang(1) là nơi Sư trụ trì.

Tác phẩm của Sư có bài kệ Ngôn Hoài và bài thơ Ngư Nhàn.


Kệ Ngôn Hoài

Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thướng cô phong đảnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Dịch:

Lựa nơi rồng rắn đất ưa người,
Cả buổi tình quê những mảng vui.
Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm,
Một hơi sáo miệng, lạnh bầu trời.

(Ngô Tất Tố)

Thơ Ngư Nhàn

Vạn lý thanh giang vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên.
Ngư ông thùy trước vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Dịch:

Muôn dặm sông dài, muôn dặm trời,
Một làng dâu giá, một làng hơi.
Ông chài mê ngủ, không người gọi,
Tỉnh giấc quá trưa tuyết đầy thuyền.




(1) Thiền sư Không Lộ chùa Nghiêm Quang: Chùa Nghiêm Quang đổi tên là Thần Quang (1167), nguyên ở hữu ngạn sông Hồng đã bị hủy hoại vì bão lụt. Năm 1630 dân sở tại dựng lại chùa ở tả ngạn sông Hồng, nay thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, thường gọi là chùa Keo dưới.

Theo Phật sự Thường Chiếu

read more “Thiền Sư KHÔNG LỘ”

Giai thoại về cụ Tả Ao

Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: cụ đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng.

Bản đồ làng Hành Thiện được vẽ bởi ông Đặng Văn Lâm

Cụ Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đình còn ghi lại những công trình địa lý phong thủy của cụ. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện cụ Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin cụ để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", cụ liền tìm cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít thiên hạ" đúng như ý nguyện!

Tương truyền cụ đang đi chơi ngoài bãi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng 500 năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng vì thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước!

Lúc sắp chết, cụ dặn con cháu khiêng mình ra miếng đất đã định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính mình một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi.

Theo Trung tâm 24x7

read more “Giai thoại về cụ Tả Ao”

Viết về thủy tổ dòng họ Đặng Hữu - Hành Thiện

Họ Đặng Hữu - Hành Thiện được bắt đầu từ cụ tổ Phụng Lộc Bá - Đặng Nhân Trí về dựng nghiệp tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định.

Đến nay đã qua 13 đời con cháu của cụ, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử của đất nước dòng họ Đặng Hữu - Hành Thiện cũng có nhiều biến động. Các con cháu của cụ đã phân tán đi khắp nơi trên toàn quốc cũng như ra nước ngoài.

Để nhớ lại cội nguồn, tìm lại những người trong dòng tộc, dựa vào những tư liệu do một số người trong họ cung cấp tôi đã biên soạn phả hệ đồ này. Do tư liệu có hạn, người cung cấp thông tin cũng nhớ không chính xác vì vậy phả hệ đồ chắc chắn có nhiều sai sót.

Để giúp những thành viên trong dòng tộc có thể liên lạc được với nhau và để hoàn chỉnh được phả hệ đồ, tôi mong muốn nhận được sự đóng góp của tất cả các thế hệ con cháu của cụ Phụng Lộc Bá - Đặng Nhân Trí.

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về :

Anh : Đặng Trần Ngọc

Địa chỉ: số 1 Ngõ 29/72 phố Thượng Thanh, phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Điện thoại : (04) 2238.2898 - 098.888.4474

Email: dangtranngoc@gmail.com

hoặc ông Đặng Văn Hoan

Địa chỉ: Khu chợ, xóm Thanh Nhân, xã Giao Thanh, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định

Điện thoại : (0350) 3741031 - 0985.810.316

Nguồn Việt Nam Gia Phả
read more “Viết về thủy tổ dòng họ Đặng Hữu - Hành Thiện”

Giáo sư Vũ Khiêu: “Học chữ để làm người!”

Mặc dù rất bận bịu (mỗi ngày phải tiếp tới 15-16 khách, cả khách đã hẹn trước lẫn những người đột ngột tới vì có công việc cần), ông vẫn dành cho chúng tôi trên dưới 30 phút để trò chuyện.

Giáo sư - AHLĐ Vũ Khiêu tại nhà riêng

Kẻ sĩ, cũng như những minh quân, càng cao niên càng dễ cảm thấy buồn và thấm thía hơn sự chông chênh của kiếp người có chữ, có chí. Đến như Nguyễn Trãi khi tóc pha sương cũng phải mượn câu thơ của Tô Đông Pha “Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn” (Người đời mà biết chữ thì nhiều lo lắng hoạn nạn) để hạ một câu tâm sự cháy gan ruột: “Pha lão tằng vân, ngã diệc vân” (Tô Đông Pha từng nói thế, ta cũng nói thế). Nhưng dù từng phải vận hạn thế nào thì một trí nhân đích thực khi đã vượt qua cái mốc “thất thập cổ lai hy” thì cũng nên nhìn xung quanh một cách vô thường, vẫn đắm đuối với những nỗi đời ấm lạnh, nhưng cũng đừng nên quá bi quan mà tổn “thọ lộc” trời cho.

Không hài lòng với hiện tại nhưng nhìn tương lai với những hy vọng - đó có lẽ là cách hành xử duy nhất đúng của các cao nhân trưởng lão. Tôi đã nghĩ như thế sau cuộc trò chuyện với Giáo sư Vũ Khiêu, Anh hùng Lao động thời đổi mới.


Cả làng cùng học

Thưa Giáo sư, ông là người làng Hành Thiện, cái nôi nổi tiếng của rất nhiều tên tuổi sáng chói trong bầu trời chính trị, văn học, nghệ thuật, khoa học Việt Nam. Đất sỏi trạch vàng, các cụ ta ngày xưa từng nói vậy. Có điều gì duy tâm chăng nếu ta giải thích hiện tượng nhiều danh nhân tầm cỡ quốc gia lại tập trung ở một làng nhỏ, đất chật người đông như vậy của tỉnh Nam Định, là ở yếu tố “địa linh nhân kiệt”?

Các bạn nghĩ thế nào, có gì thần bí hay không thì tùy, tôi cũng không biết nữa. Tôi thì tôi chỉ nghĩ rằng, mọi sự đều có tác động từ những nhân tố kinh tế - xã hội...







Tên khai sinh: Đặng Vũ Khiêu. Sinh ngày 19/9/1916 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Từng là cán bộ thông tin, tự học mà nên. Từng giữ chức Phó Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, Phó Chủ nhiệm ủy ban Khoa học xã hội, Viện trưởng Viện Triết học. Tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có “Cao Bá Quát” (1970), “Ngô Thì Nhậm” (1976), “Nguyễn Trãi” (1980), “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam” (1980), “Bàn về văn hiến Việt Nam” (3 tập, năm 2000)... Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (năm 1996).



Đất Nam Định cũng là nơi có truyền thống hiếu học, một trong những cái nôi nhân sĩ trí thức lớn nhất của Bắc Bộ. Tuy nhiên, ở Nam Định cũng không nhiều làng lại tập trung được đông các “danh gia vọng tộc” và những tài năng về mọi mặt như Hành Thiện. Tôi cứ mường tượng tới một điều gì đó giống như vận may hay cơ duyên kỳ ngộ mà đất trời mang lại, chứ không chỉ thuần túy do những cố gắng của con người...

Mỗi một làng có một nghề riêng, có đặc sản riêng, hình thành theo các điều kiện khác nhau trong lịch sử. Thí dụ, nổi tiếng về đồ gốm sứ tốt thì là làng Bát Tràng... Hành Thiện là nơi người đông đất hẹp, nghề phụ chỉ có nghề đi học và nghề dệt vải... Ruộng đất rất ít cho nên nông dân ở làng so với tỉ lệ của những nhà trí thức cũng thấp hơn. Từ đấy nên xây dựng được truyền thống hiếu học, gia đình nào cũng thế, không có tiền đi học ở bên ngoài thì học tập dạy dỗ lẫn nhau, cha dạy con, anh dạy em, chú dạy cháu, cứ thế từ đời này sang đời khác...

Tôi nhớ, Giáo sư từng viết về không khí học tập ở làng quê mình thời trước như sau: “Buổi sáng sớm trong vùng ấy đã vang lên tiếng đọc sách của con trai, tiếng đập vải của con gái xen lẫn tiếng sáo diều réo rắt suốt đêm. Con giai cố học giỏi thi đỗ, con gái gìn giữ nết na để phụng dưỡng cha mẹ, để giúp chồng ăn học, dễ dạy con cái nên người:

"Sáng trăng, trải chiếu đôi hàng,

Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ...”

Thực thơ mộng! Lớn lên trong không khí ấy thì không thể không mê nghiệp đèn sách. Tôi muốn nhờ Giáo sư lý giải hộ điều này: Phải chăng là vì một làng mà có nhiều người hiếu học và học giỏi nên vừa tạo được phong trào học hỏi lẫn nhau cũng như thi đua với nhau học tập, dòng họ này với dòng họ khác, người này với người khác... “Con gà tức nhau tiếng gáy” cũng là một kiểu thi đua cổ truyền của Á Đông...

Không có điều kiện để làm những nghề khác nên người làng tôi tập trung vào việc học tập. Đi học và dạy học là một cái nghề phổ biến. Tôi nhớ, ông nội cố Tổng Bí thư Trường Chinh là cụ Nghè Đặng Xuân Bảng, chỉ theo học cha mình mà đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (năm 1856)...

Đó là dưới triều vua Tự Đức. Tôi cũng nghe nói thời ấy đỗ Tiến sĩ là khó khăn lắm, không nhiều người được vinh dự đó đâu...

Đúng. Bởi lẽ vua Tự Đức là người thông hiểu Nho học, giỏi thơ văn. Ông tự mình chấm Tiến sĩ, chứ không giao cho ai khác việc này. Khi cụ Đặng Xuân Bảng đậu ông Nghè, đã được vua Tự Đức ban cho biển đề: “Phụ giáo tử đăng khoa”, nghĩa là cha dạy con mà thành đạt! Vẻ vang thế đấy...

Nếu tôi nhớ không nhầm thì hình như cụ Nghè Đặng Xuân Bảng về sau có làm tới chức Tuần phủ tỉnh Hải Dương, rồi lại chuyển sang làm Đốc học tỉnh nhà Nam Định nên người ta hay gọi là Cụ Tuần Đốc...

Đúng thế. Cụ Tuần Đốc về sau cũng mở trường dạy học. Em ruột của cụ cũng từng làm giáo thụ ở phủ Kiến Xương bên Thái Bình. Bởi thế, học trò theo học các cụ rất đông... Con em trong nhà theo học cũng nhiều... Thân phụ của ông Trường Chinh cũng nổi tiếng về viết sách...


Phúc đức tại mẫu

Thế dòng họ Đặng Vũ của Giáo sư thì thế nào? Hình như một người bà con của Giáo sư, lương y Đặng Vũ Chương, có viết hai câu thơ nhắc tới truyền thống của gia đình dòng họ Đặng Vũ: “Một nét văn chương, một nét nhà, Một hồn thơ triết, một đời hoa...”.

Ông cụ trước tôi ba đời tới tuổi 40 mà chưa đỗ đạt gì cả. Về sau, ông cụ lấy một bà bên Trực Ninh làm vợ, tuổi lúc đó cũng gần 30. Xuất giá tòng phu, bà cụ về nhà chồng, chăm lo cho chồng ăn học. Hai cụ sinh được 6 người con, trong đó có hai con gái. Các cụ cũng bắt các con gái của mình phải chăm lo cho chồng ăn học. Hai người con rể của các cụ về sau đều đỗ cao, làm quan to lắm...

Tôi được nghe kể lại, gia đình các cụ hồi đó rất nghèo, cơm chẳng đủ mà ăn, phải ăn kèm cả cám, nhưng con cái trong nhà vẫn rất chí thú học hành. Tất cả 4 người con trai của các cụ về sau đều đỗ cử nhân hết, làng gọi là “tứ tử đăng khoa”... Trong chuyện này cần phải nói rằng, không chỉ nhờ cha dạy con mà còn ở phần rất lớn nhờ vai trò của bà mẹ dệt vải suốt ngày suốt đêm để nuôi chồng con ăn học. Phúc đức tại mẫu. Người đàn bà có vai trò rất quan trọng để tạo dựng nên truyền thống hiếu học của một làng quê. Các cô gái ở làng ngày xưa cũng thường chọn những người có chữ để lấy làm chồng...


Theo Hồng Thanh Quang


Công An Nhân Dân



Nguồn Dân trí
read more “Giáo sư Vũ Khiêu: “Học chữ để làm người!””

Ngày Lễ hội Làng Hành Thiện tại Paris

NGÀY LỄ HỘI LÀNG HÀNH THIỆN PARIS

Bình Huyên

Hội làng Hành Thiện do ông Đặng Vũ Nhuế làm chủ tịch. Ông sinh năm 1925, du học từ năm 1948. Ông là nhà khoa học, khảo cứu văn học, và dịch giả. Chính ông đã chuyển tác phẩm "Truyện Kiều và Tuổi Trẻ" của Giáo sư Phạm thị Nhung và Lê Hữu Mục sang Anh ngữ. Mỗi năm, một buổi hội làng được tổ chức, gồm có:

  • Tế lễ Thành Hoàng của làng

  • Thuyết trình văn hoá

  • Tiệc trà

  • Văn Nghệ

Khi được mời với tư cách thân hữu, người đến tham dự không phải đóng tiền. Ban tổ chức không nhận bất cứ quà gì, kể cả hoa. Hội làng Hành Thiện không dành riêng cho những người gốc làng Hành Thiện, mà chung cho mọi người đến từ ba miền Việt Nam. Làng Hành Thiện là biểu tượng về truyền thống văn hoá và hội làng. Hội viên đóng niên liễm 25 euros, góp vào việc in báo Hành-Thiện (mỗi năm 03 cuốn), chuẩn bị tiệc trà, và thuê phòng Khánh Tiết của tỉnh (thường là tỉnh Ivry-Sur-Seine ở sát Paris về hướng đông-nam, Métro "Station Mairie d'Ivry").

Báo Hành-Thiện được nhiều nhà khảo cứu hợp tác nên nội dung rất phong phú. Hành Thiện là một làng lớn cạnh sông Ninh-Cơ thuộc tỉnh Nam Định, Bắc Việt. Làng có diện tích rộng, dân số cao, văn học và kinh tế lâu đời. Nhân sự ở nước ngoài có trình độ kiến thức rất cao và đầy đủ điều kiện vật chất, nên đã lập hội làng Hành Thiện ở nhiều quốc gia tại Âu châu, Úc châu, Mỹ châu và Gia-Nã-Đại.

Năm nay, buổi hội làng Hành Thiện được tổ chức vào chiều Chủ Nhật 27 tháng 10, từ 14 giờ đến 17 giờ 30. Trọng Bình và Thùy Huyên nhận được hai lần giấy mời do bác sĩ thi sĩ Văn Bá và giáo sư nhiếp ảnh gia Bùi Sĩ Thành thay mặt Ban Tổ Chức gửi tới từ trung tuần tháng Chín 2002. Mặc dù công việc bề bộn, hai vợ chồng cũng cố thu xếp để tới tham dự đúng giờ. Địa điểm buổi lễ ở trong khu nhà khang trang gồm nhiều phòng lớn, ở ngay góc phố Robespierre, cạnh nhà thờ Saint Pierre, gần toà Thị trưởng. Bên trong cổng là văn phòng có hai nhân viên thường trực. Phòng Khánh Tiết dành cho buổi hội làng Hành Thiện dài rộng có đủ tiện nghị, thoáng mát. Sát tường trong cùng là bàn thờ Thành Hoàng Hành Thiện có treo câu đối chữ Nho, trên chiếc bàn gỗ kiểu cổ có lư hương, hai bên là cặp lọng đỏ viền kim tuyến. Đối diện bàn thờ là các hàng ghế lịch sự. Trọng Bình và Thùy Huyên gặp ngay cặp uyên ương thi sĩ Đỗ Bình và nghệ sĩ Thúy Hằng đứng cạnh ca sĩ Thanh Hùng, ban kịch Văn Bá gồm bác sĩ Nguyễn văn Ba tức thi sĩ Văn Bá cùng phu nhân Sylviane Nguyễn, luật sư Lê Vinh Quang và phu nhân dược sư Lệ Châu, ông Nguyễn văn Đức, bà Lệ Sương, cô Kim Hoa. Hai bên tay bắt mặt mừng. Trưởng ban tổ chức Đặng Vũ Chính tươi cười tiếp đón mọi người. Gian phòng đông đảo một cách mau chóng. Mặc dù đó là thời gian đổi giờ muà đông (ba giờ sáng Chủ Nhật thụt lại thành hai giờ sáng), quan khách đến rất đúng giờ.

Bên cạnh bàn thờ là Ban Nhạc gồm các nghệ sĩ Đoàn văn Linh, Minh Châu, Ngọc Bích. Buổi lễ bắt đầu sau khi chủ toạ là giáo sư Bích Thuận và phu quân Émile Hiếu được dẫn vào chỗ ngồi. Ba vị đội khăn mặc áo tế màu xanh với huynh trưởng Đặng Hữu Thụ đứng giữa ra đứng làm lễ tế Thành Hoàng trong bầu không khí trang nghiêm nhưng không kém phần thân mật. Tiếp đó, MC Đặng Vũ Chính nhắc lại lịch sử làng Hành Thiện, đọc chương trình, rồi giới thiệu ban thuyết trình gồm có thi sĩ Văn Bá cùng phu nhân Sylviane Nguyễn, ông Nguyễn văn Đức và bà Lệ Châu. Đề tài thuyết trình về Bác Sĩ Yersin, người có công lớn với dân Việt Nam. Trong 45 phút, bốn vị thay phiên thuyết trình bằng Việt ngữ và Pháp ngữ. Cử toạ hiểu rõ từng chi tiết về bác sĩ Yersin là người đã dành trọn đời mình cho dân ta. Ông đã khổ công nghiên cứu tìm ra vi trùng bệnh dịch hạch cùng cách chữa trị, cứu biết bao sinh linh tại Việt Nam và Đông Nam Á châu nói riêng, và toàn thể thế giới nói chung. Bài viết giá trị này sẽ được bác sĩ Nguyễn văn Ba tức thi sĩ Văn Bá xem xét kỹ lưỡng một lần nữa để cho ra mắt độc giả nay mai, theo lời hứa của bác sĩ với nhà văn nhà thơ Bình Huyên.

Sau bài thuyết trình, cử toạ được ít phút đứng lên, đi lại, hàn huyên với bạn bè, và làm vài việc cần. Trong số cử toạ còn thấy ông Vũ Hùng Nghiên cùng phu nhân (là cựu tham vụ ngoại giao của Việt Nam Cộng Hoà tại Thái Lan, bây giờ là nhà khảo cứu về chữ Hán), bà Đoàn văn Linh, nữ nghệ sĩ Ngọc Xuân (là ngườin có giọng ngâm thơ tuyệt vời, lại có tài làm thơ đậm đà), ông bà Đỗ Đăng Di, gia đình ông bà Trịnh Kim Giao-Đỗ Như Bích cùng con trai Trịnh Kim Khôi, nữ thi sĩ Hoàng Minh Tâm, ...

Giáo dư nhiếp ảnh gia Bùi Sĩ Thành tiết lộ: "Toà Thị Trưởng ấn định số người tham dự không được quá một trăm, vì lý do an ninh bảo hiểm." Tuy nhiên, con số ấy đã bị vượt quá. Thi sĩ Văn Bá mời một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo, trong có Trọng Bình và Thùy Huyên, lên trước bàn thờ để chụp ảnh, quay phim làm kỷ niệm. Tiếp đó, tiệc trà được Ban Tiếp Tân phân phối, mang mời quan khách, thân hữu. Ca sĩ Thanh Hùng mở đầu chương trình văn nghệ bằng hai bản “Làng Tôi" của Chung Quân và "Mấy Dậm Sơn Khê" của Nguyễn văn Đông. Khán giả say mê theo dõi tiếng hát hàng đầu từ trong nước ra hải ngoại, mặc cho năm tháng chồng chất mà âm lượng vẫn phong phú quyến rũ lạ thường. Tràng pháo tay thứ nhất tán thưởng nồng nhiệt níu kéo người danh ca ở lại máy vi âm. Tràng pháo tay thứ hai đưa người nghệ sĩ về chỗ ngồi trong nuối tiếc, nhưng đồng thời dẫn lên sân khấu thính phòng một nữ ca sĩ khả ái có giọng hát đầy sinh lực. Đó là nữ ca sĩ Kim Thu. Tiếp theo bản "Hoài Thu" ngây ngất của tác giả Văn Trí, nữ ca sĩ cống hiến khán giả bản "La vie en rose" (lời của Édith Piaf , nhạc của Louigy, sáng tác năm 1942), và nhận được những tràng pháo tay nồng hậu. Phòng Khánh Tiết tràn ngập đủ loại âm thanh cùng lời ca đầy nhiệt tình của các ca sĩ tài tử. Phong Thủy với "Thu Quyến Rũ" của Đoàn Chuẩn Từ Linh, được phu quân thổi kèn saxo đệm theo. Sau bản "Cánh Hoa Yêu", Ngọc Xuân trổ tài ngâm thơ diễn tả bài "Khát Khao" của bác sĩ thi sĩ Kim Thành Xuân. Hải Yến gợi nhớ nhạc sĩ Lam Phương với bản "Đường Về Quê",...

Buổi hội làng Hành Thiện chấm dứt trong âm thanh du dương chất chứa nhiều nuối tiếc cho một buổi chiều mùa Thu Paris trôi đi quá nhanh. Mọi người chia tay, nhìn nhau, thầm hẹn lần gặp gỡ sau. Tất cả hình ảnh, lời nói, tiếng nhạc tuôn ra khỏi cổng khu nhà khánh tiết, nhập vào bóng tối ngoài đường phố êm đềm giữa tỉnh Ivry-Sur-Seine thơ mộng, hoà vào hương vị cùng âm thanh cao sang từ kinh đô ánh sáng Paris đang ào ạt chạy tới, cám dỗ con người vào những thú vui ban đêm đang chờ đón khắp nơi!


Theo Tuần báo Đại chúng
read more “Ngày Lễ hội Làng Hành Thiện tại Paris”

Hành Thiện quê tôi (thơ Đặng Thị Phúc)


Làng tôi thơ mộng bên sông
Hình con cá chép tắm dòng nước trong
Mười hai xóm xếp song song
Như hàng vẩy cá vòng vòng ngang thân
Cuối làng mõm cá chợ đông
Đầu làng đuôi cá nâng nâng mái chùa.
Làng tôi đất học từ xưa
Trường Chinh rạng rỡ kế thừa danh nhân
Con đường đi học mòn chân
Sáng nay lại dẫn ta gần cố hương
Thong dong cùng bạn trên đường
Đồng quê gió nội đưa hương ngọt ngào
Cành tre bông lúa lao xao
Như reo, như vậy đón chào người thân
Sông ơi! Ta nhớ chị Hằng
Đèn hoa thuyền lướt đêm rằm Trung thu
Tiền Sơn * viếng cõi hư vô
Người xưa yên nghỉ ơn mưa Cửa Thiền
Vào nhà ánh nắng xiên xiên
Bà con mừng rỡ nỗi niềm buồn vui
Bâng khuâng lòng dạ bùi ngùi
Nhớ người, nhớ cảnh, nhớ thời ấu thơ
Giờ đây dấu cũ phai mờ
Còn cây khế ngọt đứng chờ đợi ta
Khế ơi mấy chục năm qua
Nay ta tựa gốc, tình nhà nghĩa quê.

*: Tiền Sơn: Nghĩa trang của làng đặt cạnh chùa

img_6577


-----------------------------------------------
Bài thơ Hành Thiện quê tôi được trích trong tập thơ thứ hai “Dòng sông xuân” (2007) của nhà thơ, cô giáo Đặng Thị Phúc, quê làng Hành Thiện, nguyên giáo viên trường Phổ thông Bắc Ninh và Hà Nội, nay là hội viên Hội Cựu giáo chức Việt Nam, hội viên CLB Thơ Nhà giáo

read more “Hành Thiện quê tôi (thơ Đặng Thị Phúc)”

Giáo sư Anh hùng lao động Vũ Khiêu và truyền thống quê hương Hành Thiện

GIÁO SƯ ANH HÙNG LAO ĐỘNG VŨ KHIÊU

VÀ TRUYỀN THỐNG QUÊ HƯƠNG HÀNH THIỆN

PGS.NGƯT ĐẶNG ĐỨC AN

1. Về truyền thống hiếu học, làng Hành Thiện từ thời xưa đã nổi tiếng có nhiều người khoa bảng. Câu ca dao: Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện thể hiện sự khen ngợi của nhân dân đối với hai địa phương có nhiều người đỗ đạt nhất miền Bắc.

Tại Hành Thiện, nhiều tấm gương sáng về chí học hành được dân làng lưu truyền: Ông Nguyễn Như Bổng trong suốt 40 năm qua đã dự tới 15 khóa thi Hương, 2 lần đậu tú tài, đến năm 60 tuổi mới đậu Cử nhân. Ông Nguyễn Đăng Thiện đậu tú tài lúc 17 tuổi, sau đó đậu thêm 6 khóa tú tài nữa, cũng đến năm 60 tuổi mới đậu Cử nhân. Ông Đặng Văn Tường – cụ của Giáo sư Vũ Khiêu – đã nêu một tấm gương sáng cho việc học tập và dạy con cái học tập. Ông đậu tú tài 4 khóa, đến năm 53 tuổi đậu Cử nhân. Ông được bổ làm tri huyện nhưng đã sớm cáo quan về làng học thêm và dạy học. Ông Nguyễn Ngọc Liên (con rể ông Đặng Văn Tường) sau khi thi đỗ Cử nhân đã tiếp tục đọc hàng ngàn cuốn sách đủ loại, nhờ đó có một kiến thức rất sâu rộng và đã đậu tiến sĩ. Ông Nguyễn Trọng Chu, nhà nghèo, khi đi cày đi bừa, giã gạo đều mang theo sách để học. Ông đậu tú tài năm 19 tuổi và đậu Cử nhân năm 25 tuổi. Ông Đặng Hữu Nữu, nhà nghèo, tình nguyện nấu ăn cho các bạn ở làng xa đến trọ học nhà thầy (cụ tú tài Nguyễn Như Bổng) để được ăn học miễn phí, ông đậu Cử nhân năm 19 tuổi. Ông Đặng Hữu Dương, anh ruột ông, nhà nghèo, sau khi đậu Cử nhân năm 10 tuổi[?], đã tới Huế học trường Quốc Tử Giám, nhờ đó đậu Tiến sĩ năm 30 tuổi. Ông là thân phụ của nhà cách mạng nổi tiếng Đặng Đoàn Bằng.

Ông Đặng Viết Hòe đậu tú tài 7 lần mà không đậu được Cử nhân, ông mở trường dạy học ở làng và tự mình dạy dỗ con mình học tập cho đến khi thành đạt. Hai con trai ông, một đậu Tiến sĩ (Đặng Xuân Bảng), một đậu Á nguyên (Đặng Ngọc Toản). Lúc cụ Đặng Xuân Bảng đỗ Tiến sĩ, vua Tự Đức ban cho năm chữ: Phụ giáo tử đăng khoa.

dscf0027

Khúc sông đầu làng

read more “Giáo sư Anh hùng lao động Vũ Khiêu và truyền thống quê hương Hành Thiện”

Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng(1828-1910)

Người viết bộ Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu

Đặng Xuân Bảng (1828-1910) quê ở Xuân Trường - Nam Định, đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi. Trong thời gian làm quan, ông đã nhiều lần can gián vua, song đáng tiếc nhiều ý kiến vượt trên thời đại của ông không được chú ý. Sau khi về hưu, ông dành gần 20 năm để viết bộ Việt sử cương mục tiết yếu được đánh giá là có nhiều nét đặc sắc so với các bộ lịch sử Việt Nam trước đó.

Mùa xuân năm Mậu Tý (1828) dưới triều Nguyễn Thái Tổ niên hiệu Minh Mạng năm thứ chín ở xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Vợ ông Tú tài Đặng Viết Hòe (vì bảy lần đi thi đều chỉ đỗ tú tài nên còn gọi là Mền Hòe) sinh được người con trai rất khôi ngô, tuấn tú. Ông Mền Hòe ngắm con trai mà lòng dạt dào vui sướng, ông đặt tên con trai là Xuân Bảng, hy vọng con ông lớn lên sẽ làm rạng danh cho dòng họ Đặng bằng con đường khoa bảng. "Nhất định con ta sẽ hơn ta, muốn vậy, ta phải dạy con ta ngay từ sau khi nó tập nói để nó được làm quen với chữ Thánh hiền". Nghĩ sao làm vậy, khi cậu Bảng tập nói, hàng xóm đã thấy cậu bi bô "nhân chi sơ, tính bản thiện..." nên có người cho là một thần đồng. Năm 12 tuổi cậu Bảng đã biết đối và họa thơ với bố rất đúng luật và sâu sắc. Năm 19, cậu Bảng tham gia thi hương khóa Đinh Mùi (1847) đã đỗ tú kép. Ba năm sau (1850) ở khóa thi hương Canh Tuất, Xuân Bảng cùng với bố đi thi, ông Mền Hòe thất vọng vì lại đỗ tú tài lần thứ bảy, thì Xuân Bảng đỗ cử nhân nên đã tự an ủi mình "con hơn cha là nhà có phúc". Tân cử nhân Đặng Xuân Bảng được nhận chức giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương). Vừa làm quan lại vừa tự học và quan sát ghi chép để có tài liệu về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của các địa phương. Năm 1856, ông lặn lội vào Huế thi Đình khóa thi Bính Tuất đỗ Nhị giáp Tiến sĩ, đáng lẽ đỗ Tam giáp nếu bài thi của ông không có đôi điều can gián vua bỏ thú ham săn bắn để tập trung vào việc nước trước nguy cơ Pháp có thể xâm lược nước ta. Tài học cao hiểu rộng của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng đã lọt đến tai vua Tự Đức nên năm 1857, vua đã triệu ông vào kinh đô Huế phong chức bí thư Văn phòng Nội các với nhiệm vụ nặng nề là duyệt bộ sách "Khâm định nhân sự kim giám". Ông làm công việc này ròng rã hai năm mới xong. Vua Tự Đức đọc những ý kiến đóng góp của ông rất hài lòng nên ban thưởng ngay cho ông chức tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa) sau lại điều lên Tuyên Quang làm tri phủ Yên Bình là nơi núi rừng hiểm trở, bọn thổ phỉ thường xuyên quấy nhiễu. Sau một thời gian ông cai quản Yên Bình đã trở về đúng cái tên gọi của nó thì ông lại được vua gọi vào Huế trao cho chức Giám sát ngự sử (1862) chức quan có nhiệm vụ ngăn vua, giám sát và hạch tội các quan trong triều. Ngoài nhiệm vụ trọng đại trên ông được phép tham gia để bàn bạc các vấn đề về hành chính, tài chính, sử dụng quan lại. ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp có chất lượng cao, trong đó không ít ý kiến của ông đã vượt thời đại. Đó là: không nên cử Phan Thanh Giản đem vàng bạc, châu báu để chuộc lại sáu tỉnh Nam Kỳ. Việc này Tự Đức bác bỏ. Kết quả vàng bạc thì Pháp vui vẻ nhận nhưng đất đai của sáu tỉnh thì không trả. Thế là ta mất cả chì lẫn chài! Ông lại tâu với vua cho mở mang công thương nghiệp, khuyến khích dùng hàng nội, không dùng hàng ngoại để ban thưởng. Việc sử dụng quan lại: Mỗi khi cất nhắc hay tuyển chọn quan dù là dân chính hay binh chính đều phải dựa vào tiêu chuẩn và công trạng rõ ràng, không chỉ dựa vào việc tâu trình của quan đầu tỉnh hay của các bộ mà xem xét được.

Nhà thờ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng tại xóm 7 Hành Thiện

Đặc biệt quan hệ với thực dân Pháp ông tâu:

- Theo thần, ta nên mở mang thông thương với nhiều nước, Pháp đã chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ thì thế nào chúng cũng nhòm ngó Bắc Kỳ. Nếu ta quan hệ với nhiều nước thì Pháp không có khả năng ép ta được. Trái lại, các nước sẽ cùng đua nhau đổ của vào làm lợi cho ta.

Tiếc thay, lời tâu chí lý này đã bị Tự Đức bác bỏ với lời phán lạnh lùng:

- Giao thiệp với một nước còn chưa xong, huống chi là nhiều nước.

Bên cạnh ta, nước Xiêm La (Thailand) đã mở cửa cho nhiều nước cùng vào nên họ không bị nước nào chèn ép, họ đã nhanh chóng tiếp thu các tiến bộ khoa học Âu-Mỹ nên đã hòa nhập được với thế giới văn minh mà dân tộc họ đã không bị hòa tan! Năm ất Sửu (1867) ở tỉnh Quảng Yên bọn hải tặc hoành hành khiến cho dân tình điêu đứng, quan lại thì bất lực. Ông lại được điều đến với chức Quan án sát để giúp dân dẹp giặc. Sau khi Quảng Yên yên vui, ông lại được điều về Hà Nội rồi lại đi Sơn Tây. Năm 1872, ở tuổi 44 ông Xuân Bảng được thăng chức Tuần phủ tỉnh Hưng Yên, sau lại làm Tuần phủ tỉnh Hải Dương. Năm 1874, Pháp mang quân xâm chiếm Hải Dương, quân ta thua trận, ông Xuân Bảng bị bãi chức Tuần phủ và triệu về kinh hậu xét. Năm 1876, ông bị giáng chức tuần phủ phái đi khai hoang ở Đồn Vàng, Hưng Hóa (Phú Thọ) và Bất Bạt (Sơn Tây) khi đi khai hoang ông cho gia nhân gánh theo mấy bồ sách và các tài liệu ông đã bỏ công ghi chép hàng ngày để nghiền ngẫm và bổ sung cho công việc viết sử sau này. Hai năm sau (1878), công việc vua giao cho đã hoàn tất, ông xin nghỉ hưu. Năm 1882, Tự Đức thấy việc bãi chức ông Đặng Xuân Bảng là vô lý nên lại phục chức cho ông. Nếu từ chối chức vụ cũ thì làm vua phật ý mà nhận lại chức thì không còn trí lực như xưa, nên ông Đặng Xuân Bảng xin nhà vua cho nhận chức Đốc học tỉnh Nam Định để hợp sức tuổi già và có điều kiện chăm sóc mẹ. Năm Mậu Tý (1888) khi vừa tròn 60 tuổi cụ Đặng Xuân Bảng xin nghỉ hưu lần thứ hai.

Mặc dù có thời gian và tài liệu đã được ghi chép và tích lũy ngót 40 năm nhưng cũng phải mất gần 20 năm Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng mới viết xong bộ "Việt sử cương mục tiết yếu" gồm tám quyển 1.200 trang.

"Đây là bộ thông sử duy nhất ở nước ta có ghi chú các sự kiện lịch sử từ thời Hùng Vương đến hết triều Tây Sơn (1802) có kèm theo các phần "án", chú, bình, khảo,... là những công trình khảo chứng lịch sử lớn nhỏ của tác giả và nhiều sử gia khác. Vì thế, nó có nhiều nét đặc sắc so với các bộ sử truyền thống khác. Tác giả đã tham khảo nhiều nguồn tư liệu trong và ngoài nước, phân tích, tổng hợp vấn đề, chú ý tìm nguyên nhân của những thiếu sót để tiến hành phê phán, nên những vấn đề khảo chứng có sức thuyết phục" (Luận án Tiến sĩ của Hoàng Văn Lâu - Viện nghiên cứu Hán Nôm), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 2-1997).

Sinh cùng thời với cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1909), cụ Nguyễn Khuyến từ quan để về câu cá, làm ruộng, làm thơ,... chỉ có "năm gian nhà cỏ thấp le te, ngõ tối đêm sâu đóm lập lòẹ.." đời sống đạm bạc "đầu trò tiếp khách trầu không có" thì cụ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng hai lần về hưu với hai bàn tay trắng. "Cụ về xã Văn Lâm lập ấp, đặt tên là Tả Thành Thiện cụ nói với con cháu: "Bởi cả đời ta đi làm quan nên không có của cải để lại, may còn mảnh đất này của ông cha, các con lo cày cấy lấy cái ăn. Quê ta nhiều thế gia cự lộc quen sống xa hoa, đừng bắt chước họ, hãy lập nghề nông cho quen khó nhọc...".

Sau khi bộ sử gồm tám quyển với 1.200 trang viết tay, viết xong thì được người bạn chí cốt là Cao Xuân Dục tặng 20 lạng vàng để cụ Đặng Xuân Bảng thuê in ấn lưu lại cho muôn đời. [...]

read more “Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng(1828-1910)”

Đình làng Hành Thiện

Làng ta có một ngôi Đình, nguyên trước chỉ dùng để làm nơi hội họp và tuyên đọc 10 điều của nhà Vua ban huấn cho dân chúng nghe chứ không dùng để thờ Thần như Đình các làng khác.

Đình ở ngay bên sông con phía giữa làng, giáp với làng trong, lâu ngày bị hư nát, năm Thành Thái thứ 16 (1904) cụ Tổng đốc Đặng Đức Cường và cụ Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn cúng tiền để tu lý lại (Cụ Đặng Đức Cường cúng 1000 quan tiền, cụ Nguyễn Duy Hàn cúng 500 đồng bạc), làm bằng gỗ lim lợp ngói, chung quanh xây gạch.

Trong Đình có treo 1 cái biển khắc chữ “Mỹ Tục Khả Phong” của triều vua Tự Đức ban cấp năm Tự Đức thứ 16 (1861).

Câu đối treo ở Đình:

Kinh thủy tô sơ công, thử thức quách, thử viên dung, rĩ hữu niên vu tu thổ.
Thái bình đa hạ nhật ngã nhân dân. Ngã phụ lão, tương giữ lạc vu thử đình.


Mười điều ban huấn là:

1. Đôn nhân luân,
2. Chính tâm thuật.
3. Thượng tiết kiệm,
4. Hậu phong tục,
5. Huấn tử đệ
6. Vụ bản nghiệp,
7. Sùng chính học,
8. Giới dâm thắc,
9. Thận pháp thủ,
10. Quảng Hành Thiện.

Theo Hành Thiện Xã Chí - Đặng XuânViện

dinhhanhthien02

Sân Đình làng Hành Thiện

dinhhanhthien03

Nhà Bia

dinhhanhthien01

Đình chính

read more “Đình làng Hành Thiện”

Làng Hành Thiện xưa và nay

Từ thành phố Nam Định phải đi một chặng xe buýt, rồi một cuốc xe ôm theo con đường trải nhựa phẳng lì, men theo những cánh đồng đang vào mùa gặt, mùi khói rơm rạ thoang thoảng khắp không gian, chúng tôi đến làng Hành Thiện, thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường. Hành Thiện là một vùng đất nổi tiếng hiếu học, đất quan và cũng chính trên mảnh đất này đã sinh ra cố Tổng bí thư Trường Chinh.

05-lang-hanhthien-33507-300

Làng Hành Thiện như một thị trấn nhỏ, nhà cửa cao tầng san sát, đường làng lát gạch đỏ au trong nắng vàng, chợ búa tấp nập, hai bờ kênh được kè đá sạch sẽ, những rặng liễu bình yên rủ bóng ven bờ. Từ bên này kênh nhìn sang, làng Hành Thiện giống như con cá chép quẫy lên. Có lẽ khi lập làng, các cụ xưa đã muốn con cháu sau này luôn ở tư thế đi lên. Làng có hơn 10 xóm, mỗi xóm là khúc của thân con cá, các xóm đều thông nhau, có thể len lách từ xóm này sang xóm nọ theo đường tròn. Những con đường liên thông đó được ví là sợi dây liên kết tình làng nghĩa xóm. Hành Thiện mang trong nó đặc trưng khá rõ nét của làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ và những nét đẹp của văn hóa làng quê truyền thống Việt Nam. Bản hương ước xưa của làng vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Trong đó có một quy ước là định hướng con em theo việc học. Việc học được quan niệm trước hết là để học làm người, biết đối nhân xử thế, có đạo nghĩa, và sau đó học cũng chính là một nghề. Cũng bởi vậy, ngoài việc là nơi sinh ra nhiều người tài thì Hành Thiện còn là mảnh đất mà cuộc sống luôn an bình, mọi người yêu quý tôn trọng lẫn nhau. Điều này có thể thấy ngay khi bước vào làng Hành Thiện, một cảm giác bình yên, người dân hiền hoà, chăm chỉ. Điều đặc biệt khi đặt chân đến đây là các thiết chế văn hóa truyền thống vẫn còn được lưu giữ và bảo tồn. Hiện làng vẫn còn hàng trăm ngôi nhà cổ, có nhiều ngôi nhà đã được công nhận là di tích cổ, có giá trị. Nhiều miếu thờ, văn chỉ, võ chỉ trải qua thời gian đã bị xuống cấp, sụp đổ nay được khôi phục lại, trong đó có chùa Keo nổi tiếng, là điểm đến của khách thập phương…


Có thể nói, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự biến động của xã hội, thật đáng quý là Hành Thiện vẫn giữ lại cho mình những thiết chế văn hóa cũng như những nét đẹp truyền thống của một làng quê Việt Nam xưa. Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những nét đẹp truyền thống đó được người dân Hành Thiện nâng niu, gìn giữ và phát huy để tiếp tục phát triển. Hưởng ứng cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, làng Hành Thiện luôn đi đầu và là một trong những làng quê văn hóa tiêu biểu của cả nước. Làng được công nhận là làng văn hoá cách đây 8 năm. Trong làng có 1.200/1.621 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá, mọi người trong làng yêu thương chia sẻ, giúp đỡ nhau, mọi đóng góp đối với địa phương đều thực hiện đầy đủ, kinh tế từng hộ ổn định. Ông Nguyễn Vũ Thịnh, Chủ tịch UBND xã Xuân Hồng cho biết: Làng Hành Thiện luôn được xem là điển hình gương mẫu trong thực hiện xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư, gia đình văn hoá.

Rõ ràng từ nền tảng đã được gây dựng từ xa xưa, với thái độ trân trọng, giữ gìn và biết phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống, người dân Hành Thiện đã xây dựng ngôi làng của mình trở thành một điển hình, hiện thân của truyền thống và hiện đại. Chi hội trưởng Chi hội Khuyến học làng Hành Thiện Nguyễn Đăng Hùng cho biết: So với các nơi khác cuộc sống của làng khá bình yên, ít khi xảy ra va chạm và những tệ nạn hầu như không có, đời sống ngày càng đi lên, khá giả. Tôi tin rằng, chúng tôi có được điều này chắc chắn đó là do làng có một truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo nghĩa. Nó là nền tảng, cội nguồn của mọi nét đẹp khác.

Đinh Thị Loan


Nguồn Người đại biểu Nhân dân

read more “Làng Hành Thiện xưa và nay”

Việc thi cử của các triều vua dưới dạng các con số

Dưới đây là phần trích trong nghiên cứu "Việc thi cử của các triều vua dưới dạng các con số" của Vietsciences-Nguyễn Văn Lục có nói về làng Hành Thiện trong phần miền Bắc

Tỉ Lệ Thi Đỗ Tại Bắc Kỳ.

Ngoài Bắc, thì số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hànội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là Nam Định. — tỉnh Nam định thì đặc biệt là vùng Hành Thiện đã phá kỷ lục về số người đỗ với 73 người từ năm Gia Long 1813 cho đến lúc chấm dứt thi cử 1918. Nghiã là tròn 100 năm.

Xã Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

Trong bài này, chúng tôi thấy phải dành riêng một phần để nói về xã Hành Thiện. Xã Hành Thiện thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Xã có 18 (Giông). Giông là tiếng địa phương để chỉ những con đường, hai bên có nhà cửa. Đó cũng là lối tổ chức nhà cửa xây cất có thứ tự của làng Hành Thiện. Trong QTHKL tôi thấy mãi đến năm Gia Long 1813 (Gia Long lên ngôi 1802), mới có Nguyễn trọng Trù là người đầu tiên thi đậu. Sau đến năm 1821 có 2 người em của Nguyễn Trọng Trù đậu cùng khoa. Và cũng kể từ đó liên tiếp các khoa thi đều có người của làng Hành Thiện thi đậu.

read more “Việc thi cử của các triều vua dưới dạng các con số”

Bước đầu kiểm kê lại những tác phẩm của Đặng Xuân Bảng trong kho sách Hán Nôm

BƯỚC ĐẦU KIỂM KÊ LẠI NHỮNG TÁC PHẨM

CỦA ĐẶNG XUÂN BẢNG

TRONG KHO SÁCH HÁN NÔM

HOÀNG VĂN LÂU

Đặng Xuân Bảng là một nhà hoạt động xã hội, nhà giáo dục học... Nhưng ông rất có ý thức hoạt động sáng tác ở mọi hòan cảnh. Khi lên nhận chức Bố chính ở Tuyên Quang, bọn tàn quân Ngô Côn(2) đánh phá khắp nơi thổ phỉ nổi lên như ong “Quê khách gặp người toàn chuyện giặc, khắp nơi làng bản chỉ quân binh”(3). Thế mà ông vẫn làm thơ. Số thơ này, sau tập hợp thành tác phẩm Như Tuyên thi tập.

Lại, thời gian bị đầy ở Đồn Vàng, Hưng Hóa, rừng thiêng, nước độc, ông bị ngã nước, bị lên nhọt, nhưng vẫn tận dụng thời gian biên soạn bộ Nam phương danh vật bị khảo. Ông nói: “Tôi đi làm quan các nơi, mỗi khi gặp sự vật gì, thì đều cho kiểm tra lại, rồi thuận tay cầm bút ghi chép. Thường tiếc là các sách của bậc tiền bối còn nhiều thiếu sót và sơ lược. Năm Kỷ Mão (1879) bị đầy ở Đà Giang, tôi nhân dịp ấy đem các sách của cổ nhân và chư vị tiền bối nước ta, sách Nhất thống chí của bản triều và những gì bản thân ghi chép được hàng ngày ra khảo đính lại, chỗ còn thiếu thì bổ sung, chỗ sai lầm thì đính chính, chỗ chưa biết thì để trống, chia thành môn loại, chú âm Việt, ghi rõ hình trạng để làm tài liệu tham khảo” (Nam phương danh vật bị khảo tự).

read more “Bước đầu kiểm kê lại những tác phẩm của Đặng Xuân Bảng trong kho sách Hán Nôm”

Họ Đỗ Hành Thiện, Xuân Hồng, Xuân Trường,Nam Định

HỌ ĐỖ XÓM 5 LÀNG HÀNH THIỆN

XÃ XUÂN HỒNG, XUÂN TRƯỜNG, NAM ĐỊNH
(tin từ ông Đỗ Bắc Biệt).

1/ Từ đường họ Đỗ ở xóm 5 (xóm Ngũ Phúc), Hành Thiện thờ cụ Tổ là Đỗ Đức Định, bị xung quanh tranh chấp đất đai, làm ô uế khuôn viên Từ đường. Tháng 1/2007 nhờ chính quyền địa phương can thiệp, con cháu đã tiến hành tu sửa lại Từ đường, xây tường bao quanh. Tuy việc lập sổ đỏ cấp giấy chứng nhận sở hữu đất chưa làm được nhưng con cháu được sự giúp đỡ của chính quyền sẽ làm ngay để tiến hành nâng cấp Từ đường cho khang trang.

2/ Gia phả họ Đỗ Hành Thiện do cụ Nguyệt Hiên Đỗ Ngọc Bá phụng thảo ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Tý (1949) đời thứ 10 ngành Giáp có ghi Đỗ Bội Quỳnh con cụ Đỗ Ngọc Ái như sau: "Ông sinh năm 1924 mất năm 1949 khi công tác ở Công an". Gia phả chỉ ghi được bằng ấy chữ vì thời gian đó là thời kỳ "hai năm bốn tháng" giặc Pháp đàn áp khốc liệt nhất, phá vỡ nhiều cơ sở cách mạng, nhiều gia đình có người tham gia kháng chiến bị bắt, giết, tù đày. Trong nhiều năm, ông Đỗ Thế Viêm đã đi tìm chiến công của ông Đỗ Bội Quỳnh. Tháng 1/2007 được sự giúp đỡ của ông Nguyễn Đức Minh, Thiếu tướng, nguyên Viện trưởng V21 (ĐT 048551192) và ông Đỗ Văn Hào công an huyện Xuân Trường (ĐT 0350754022) đã làm hồ sơ liệt sĩ Đỗ Bội Quỳnh, sinh thời là Quận trưởng Công an Hoàn Kiếm, Hà Nội, về họp tại Ứng Hoà, Hà Đông bị giặc Pháp ném bom, hy sinh ngày 2-9-1949. Hiện nay gia đình cụ Đỗ Ngọc Ái còn em ruột ông Đỗ Bội Quỳnh là ông Đỗ Bội Quyết. Ông Đỗ Thế Viêm đã liên hệ được với ông Quyết ngày 24-1-2007.

Nguồn Họ Đỗ Việt Nam

read more “Họ Đỗ Hành Thiện, Xuân Hồng, Xuân Trường,Nam Định”

Chi họ Vũ làng Hành Thiện

CHI HỌ VŨ LÀNG HÀNH THIỆN

- HUYỆN XUÂN TRƯỜNG (NAM ĐỊNH)

Trích Gia phả

Được biết: khoảng cuối thế kỷ thứ 15, một trong những con cháu Cụ Vũ - Hồn, tên Vũ Chân Tâm(*) đã cùng gia đình di cư từ làng La Xá huyện Thanh Tâm, tỉnh Hải Dương đến định cư tại làng Đế Trạch, sau là Phương Để, trấn Sơn Nam tỉnh Nam Định.

Đến đời thứ 9 con cháu Cụ Vũ Chân Tâm là Cụ Vũ Huệ Trì đã rời bỏ làng Đế Trạch đến cư ngụ tại khu chùa ngoài làng Hành Thiện ngày nay mà khi đó gọi là Hành Cung Trang thuộc Phủ Xuân trường, tỉnh Nam Định.

SỰ HÌNH THÀNH HỌ ĐẶNG – VŨ TẠI LÀNG HÀNH THIỆN

Cụ Vũ Thiên Thể tức Vũ Huệ Hồi sanh năm Giáp Dần 1734 đời Vua Lê Huệ Tông, mất ngày 24 tháng 1 năm Mậu thìn nhằm 09 – 01 – 1809 hưởng thọ 75 tuổi.

Năm 1755 (21 tuổi) Vũ Thiên Thể lấy con gái Ông Bà Đặng Phước Long người Làng trong Hành Thiện tên Đặng Thị Từ Giảng, vì ân nghĩa và vì quyền lợi thiết thực đã đổi thành Đặng Thiên Thể.

Năm 1884 cháu 3 đời ông Tú tài (2 lần) Đặng Vũ Nghĩa đề xướng việc ghép thêm chữ Vũ sau họ Đặng cốt để cho con cháu sau này không quên Tổ của Tổ Mẫu thành Đặng Vũ Thiên Thể và họ Đặng Vũ xuất hiện từ năm 1884. Tuy nhiên về sau cũng có một số con cháu Tổ đã thay chữ Vũ bằng chữ khác như Cụ Tú tài Đặng Cao Kình, Cụ Đặng Quốc Kiều, Cụ Đặng Cao Phan…tuy nhiên vẫn duy trì tinh thần con cháu Tổ Đặng Vũ.

ĐẶNG VŨ BỔNG Sao lục Phả Ký Đặng Vũ

--------------------------------------------------------------------------------

(*) Trong phả họ Vũ Mộ Trạch chi Hiển đức có chép: khai tổ chi III (Hiển Đức, là Vũ Hữu được phong tặng Toán trạng và được ban thưởng 100 mẫu đất ở Tào Nha Nam Xương, mặc dù làm chức đại quan trong triều, nhưng nhà nghèo không có điều kiện khai khẩn canh tác nên một phần lớn cho nông dân địa phương đó làm rẽ, một phần trao cho bà Thứ thất mà Cụ cưới ở vùng đó, không biết bà này có bao nhiêu con trai, con gái chỉ biết qua lời truyền miệng của dân vùng này thì: Cụ Thượng Hữu có người con trai tên là Vũ Tán làm chất Đồng Tổng Quản ở Sơn Nam đã để con cháu khẩn hoang lập đất ở miền này. Chữ Tán còn một âm là TÂM (trong từ Tâm Tâm có nghĩa là lòng dạ hăng hái (vậy có thể nào là Vũ Chân Tâm chăng ???)). BBT


Nguồn Dòng họ Vũ Võ

read more “Chi họ Vũ làng Hành Thiện”

Họ Đặng-Vũ và Làng Hành-Thiện

Vào đầu hay giữa thế kỷ XVII , một người họ Vũ tên là Vũ Huy Pháp, nguyên quán tại Mộ Trạch , tới lập nghiệp tại phủ Thiên Trường, ở phía đông trấn Sơn Nam, tức tỉnh Nam Định hay Hà Nam ngày nay, một vùng giáp biển cả. Nơi đây là đất thang mộc, quê hương, của nhà Trần, nguyên gốc tại làng Tức Mạc. Các vua Trần, khi nhường ngôi cho con thường về ở đây, nên mới đặt tên cho vùng này là Thiên Thanh, rồi Thiên Trường; dưói đời nhà Lý Thiên trường gọi là Thanh Hải, và dưới đời nhà Nguyễn tên này bị đổi là Xuân Trường. Không rõ ông Pháp Huy đi thẳng từ Mộ Trạch đến hay từ một nơi tạm cư khác; như trường hợp tổ họ Vũ ở Vĩnh Chụ, Hà Nam, trước khi định cư ở Vĩnh Chụ, đã từng sinh sống ở làng Tây Lạc, tổng Sa Lung, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Ông di cư trong trường hợp nào ? Con cháu ông cũng không rõ. Thuyết mà chúng tôi được nghe kể lại nhiều nhất là gia đình ông bị tội tru di tam tộc, nên ông phải trốn tránh và tá túc khắp nơi; sau cùng ông dừng chân nơi một ngôi chùa ở phủ Thiên Trường, thôn Dũng Tý thuộc làng Giao Thủy -- vào đầu triều Nguyễn được đổi là Hành Cung, đến năm 1823 được được đổi là Hành Thiện -- và được một người làng này, tên là Đặng Phúc Long, giúp đỡ. Vì chịu ơn họ Đặng ông cho một người con, tên là Thiện Thể, làm rể họ Đặng, và người con này đổi họ thành Đặng-Vũ, bắt nguồn cho một dòng dõi riêng biệt.

Gia phả họ Đặng-Vũ ghi ông Đặng-Vũ Thiện Thể sinh năm 1734, không biết ở đâu, và mất năm 1765. Tính rằng khi lấy vợ, ông Thiện Thể phải khoảng 20 tuổi, thì ông Vũ Pháp Huy muộn nhất cũng xuất hiện tới vùng Hành Thiện vào năm 1754, và lúc đó ông đã đứng tuổi rồi. Nếu gia đình ông qủa mắc phải tội tru di tam tộc sau một hành động đối nghịch triều đình của ông hay người nhà ông, thì chuyện đó phải xảy ra trước năm 1754.

Xét trong sử sách thì vào giữa thế kỷ XVIII, sau vụ Trịnh Giang bạo ngược (1735), phế rồi giết vua Lê Duy Phường (1720-1732), giặc giã hay nghĩa binh, mượn tiếng phò Lê, nổi dậy khắp Việt Nam. Vào khoảng 1740, ngoài việc đối phó với phe Lê Duy Mật ở Thái Nguyên, với Nguyễn Danh Phưong ở Sơn Tây, rồi Thanh Hóa, và phe con cháu nhà Mạc ở Cao Bằng, triều đình còn phải đối phó với hai đảng lớn đều do họ Vũ khởi xướng, tức là nhóm giặc Ngân Già ở Sơn Nam và giặc Ninh Xá ở Hải Dương.

Khi nhóm giặc Ninh Xá bị dẹp năm 1741, dư đảng tiếp tục mộ quân chống triều đình; họ chia nhau chiếm cứ các vùng: Nguyễn Diên, cháu Nguyễn Tuyển ở Nghệ An; Hoàng Văn Chất ở Sơn Nam, vùng Khoái Châu; và mạnh hơn hết là Nguyễn Hữu Cầu, con rể Nguyễn Cừ, cũng gọi là giặc Cỏ, ở Kinh Bắc-Hải Dương.

Theo Luật nhà Lê và theo tuổi Vũ Pháp Huy -- vì có con sinh năm 1734, nên năm đó ông phải khoảng 20 tuổi -- nếu ông có án tru di tam tộc thì hoặc chính ông, hoặc cha, anh em trai, bác, chú, của ông đã phạm tội mưu phản hay mưu đại nghịch, tức tự mình hay cùng đồ đảng chống lại nhà vua hay nhà chúa.

Trước năm 1754, những người họ Vũ chống họ Trịnh được sử sách nhắc tới là Vũ Thước, Vũ Đình Dung và Vũ Trác Oánh đã kể trên. Nếu ông là thân nhân của Vũ Trác Oánh, thì Pháp Huy không phải là tên thật của ông; bởi vì chúng tôi có tham khảo các tài liệu về Vũ Trác Oánh, nhưng không thấy thân nhân nào của ông có tên là Pháp Huy cả.

Ngoài ra, lại có thuyết cho rằng Vũ Trác Oánh trốn được vào Nam và lập nghiệp trong đó, Về phần Vũ Đình Dung, con cháu ông vẫn còn sống ở vùng Hành Thiện, và dân Đặng-Vũ có ít xác xuất Vũ Pháp Huy cùng tộc với họ. Còn lại Vũ Thước, nhưng chúng tôi chưa dủ dữ kiện để có ý kiến.

Có thể Vũ Pháp Huy chỉ lánh pháp đình, không nhất thiết vì án tru di, vì ông phạm tội mưu bạn tức chỉ là người tham gia, nhưng không phải là chủ não cuộc phản loạn. Dù sao chăng nữa, trong trường hợp ông có dính lứu tới một cuộc nổi loạn, ông phải trốn chạy tới vùng Hành Thiện sau năm 1735 , năm các cuộc " khởi nghĩa" bát đầu, cùng với con, và có thể cả vợ, vì con ông sinh năm 1734.

Nhưng cũng biết đâu thuyết ông Vũ Pháp Huy mắc nạn, đến cư ngụ tại phủ Thiên Trường chỉ là một huyền thoại! Như chúng tôi đã nêu ở trên, nhiều người họ Vũ bỏ Mộ Trạch đi nơi khác đi nơi khác làm ăn vì một lý do rất đơn giản là sự mưu tìm kinh kế. Cứ tính rằng rằng sau chín đời, một người họ Vũ có thể sinh sôi nẩy nở tới 880 người như Gourou kể về họ Vũ ở Vinh Chụ. Vậy trải qua các thế kỷ, đinh số của họ Vũ tại Mộ Trạch sẽ cao quá độ nếu một thành phần không di tản -- thường là theo trào lưu Nam tiến.

Những người ra đi thường là những người nghèo, mà quan viên họ Vũ, bởi trọng đức thanh liêm, phần nhiều sống tron cảnh thanh bần.

Bị thúc bách bởi nhu cầu vật chất, người di cư hay tìm đến những khu đất mới; vì tại những nơi này họ gặp ít cạnh tranh phiền toái, và tương lai gia đình có nhiều triển vọng hơn. Vào thế kỷ XVII, vùng hạ lưu sông Hồng là một vùng đất bồi hãy còn bùn lầy, nên tương đối chưa có nhiều dân cư. Những làng được lập lúc đó đều là những làng mới. Chính làng Hành Thiện bây giờ lúc đó chỉ là một ấp thuộc xã Giao Thủy(1), không có địa giới nhất định trước thế kỷ XVII, vì ấp dựng trên đất bồi nơi sông ngòi hợp lưu; những nơi đó lòng sông hay di dịch, lâu đời đất bồi mới được cố định.

Địa thế của làng Hành Thiện tương lai này, lạ lùng thay, cũng tựa như huyện Đường An, nghĩa là giáp sông bốn mặt; theo phong thủy đó là một địa thế đẹp. Đặc biệt hơn, đất lại có hình con cá hay ngòi bút lông chấm vào bảng; cũng theo phong thủy nó biểu tượng cho sự phồn thịnh về khoa danh.

Nhưng vào thế kỷ XVII, thanh danh của dân Giao Thủy chẳng ai biét đến; ngược lại, lời chê, tiếng xấu nhiều hơn. Vì phải phá rừng, mở đất cưc nhọc; dân vùng đất mới này thường là những người cứng cỏi, nhưng không phải vì vậy mà ai cũng theo gương Vũ Đình Dung: "Mỗi khi có việc gì thì ùa nhau làm náo loạn," rồi "lấy những chỗ bùn lầy làm nơi hiểm trở..." như Phan Huy Chú phê phán trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (Hà nội, Sử học, tập 1, Địa Dư Chí, trang. 81).

Đối với dân ở những vùng ven biển, thành kiến xấu tồn tại đến tận cuối thế kỷ XIX. Sử gia nhà Nguyễn (2) chê họ có "tập tục quê mùa, giọng nói ngọng nghịu, người ta gọi là tiếng đường bể..., ham lợi mà ít làm điều nghĩa, lại có nhiều người làm tà thuật, đồng bóng; người sinh rasáu, bảy tuổi đi học, đến khi lớn lại bỏ để đi cạnh tranh kiếm lời; cho nên ít có kẻ sĩ danh tiếng và thành đạt; ấy là do phong thổ trở nên vậy".

Dĩ nhiên vì phần đông những người khai khẩn đất hoang là dân tạp xứ, thuộc lớp cùng đinh. Những lời chỉ trích khắt khe trên không sai hẳn, nhưng nếu có đúng thì cũng chỉ đúng một phần thôi. Trái với nhận xét của tác giả triều Nguyễn, lớp sĩ phu sống ở Thiên Trường không đến nỗi ít oỉ; cả bốn huyện đều có người khoa mục ngay từ đời Lê. Riêng Giao Thủy là huyện có văn học nhất trong phủ, dưới triều Lê, đã đếm được 12 tiến sĩ, một con số khá cao đối với một vùng đất mới; Kể từ triều Nguyễn số người đăng khoa lại càng gia tăng.

Năm 1765, khi Đặng Vũ Thiện Thể nhập tịch làng giao Thủy, định cư tại trang Hành Cung -- được Minh Mạng tăng lên làm xã, rồ đổi tên là Hành Thiện vào năm 1823 -- thì làng này đã có ba họ đứng đầu về dân số cũng như sĩ số, là họ Nguyễn, họ Phạm, và họ Đặng. Chính nhờ nhân danh người họ Đặng, vì là rể lập tự cho ông Đặng Phúc Long, mà ông thiện Thể được ghi vào sổ hộ tịch của làng.

Không rõ tổ tiên họ Đặng làng Hành Thiện đến định cư nơi đây từ bao giờ, và có liên hệ gì hay không với những người họ Đặng đã đánh dấu lịch sử Việt Nam, như họ Đặng ở Lương Xá, huyện Chương Đức, tỉnh Hà Đông, đời đời vinh hiển khi ông Đặng Huấn lập công với nhà Lê Trung Hưng, lại có con gái lấy Trịnh Tùng và sinh ra Trịnh Tráng.

Chỉ biết rằng, nhân viết về Đặng Đình Tướng, cháu năm đời Đặng Huấn, Tham Tụng thới Trịnh Cương, Trần Tiến có ghi: " Họ Đặng phát phúc rất thịnh, ở tản mát khắp nơi, được phát đất rất nhiều. Không những được vài ngôi mà thôi, đất còn phát đến cả con gái; nên có bốn người lấy chúa" ( Đăng Khoa Lục Sưu Giảng, đã dẫn, tr. 610.)

Tình thân giữa họ Đặng và họ Vũ đưa đến sự thành lập họ Đặng-Vũ không hiểu do một sự gặp mặt tình cờ giữa hai ông Vũ Huy Pháp và Đặng Phúc Long hay là do sự kết thúc của một mối lien hệ mật thiết sẵn có giữa hai họ. Xem qua sử sách thì thấy kể: từ năm 1448, với Vũ Đức Lâm và Đặng Tuyên thi đậu tiến sĩ cùng khoa, qũy đạo của quan viên họ Vũ làng Mộ Trạch luôn luôn đụng phải người họ Đặng. Họ Đặng và họ Vũ là đồng liêu, đi sứ cùng nhau, nhậm chức cùng nơi. Từ sự đồng liêu đến chỗ thâm giao không xa mấy; như Vũ Duy Chí và Đặng Công Chất rất thân nhau.

Hai gia đình ông Vũ Huy Pháp và Đặng Phúc Long có biết nhau trước hay không chăng nữa, sự thể vẫn là họ đã thông gia với nhau: Vũ Thiện Thể đã lấy Đặng Thị Từ Giảng. Gia phả cho biết ông Vũ Pháp Huy có hai con con trai, người thứ hai tên là Vũ Thiện Vàng không biết về sau ra sao, nhưng chắc chắn là con cả; vì lệ xưa trọng việc tế tự, chỉ cho phép con thứ làm con nuôi người ngoại tộc

Ông Thiện Thể thường được chép là làm con nuôi ông Đặng Phúc Long trước khi lấy bà Từ Giảng. Chép như vậy là sai và không am hiểu luật lệ ngày xưa. Một khi đã được nhận làm con nuôi ai, kẻ dưỡng tử được coi như người ruột thịt trong nhà; con gái của cha mẹ nuôi trở thành chị em gái của đương sự; vì thế không có sư hợp giao giữa cô con gái và người dưỡng tử được. Theo Luât Hồng Đức, Thiên Chính Thư, ngay sự chung sống-- chắc cùng phòng -- giữa dưỡng tử và chị em nưôi cũng bị khép vào tôi thông dâm (Deloustal, đã dẫn, tr. 318).

Thành thử ông Thiện Thể phải thành hôn với bà Từ Giảng, rồi mới gia nhập họ Đặng. Theo truyền thuyết , sự đổi họ sở dĩ có là vì ông Đặng Phúc Long không có con trai, muốn cho người rể hưởng thừa tự.

Trong một xã hội dựa trên nho giáo, lấy việc thờ cúng gia tiên làm căn bản, sự nuôi con nuôi được khuyến khích vì làm giảm bớt số trẻ mồ côi bơ vơ, nhưng sự nuôi con nuôi làm kẻ thừa tự rất phức tạp. Theo Luật Hồng Đức cũng như Luật Gia Long, người con lập tự bắt buột phải được chọn trong hàng con thứ của anh em trai. Nhưng lệ này thật ra chỉ được áp dụng tuyệt đối dưới triều Nguyễn với điều 76, Luật Gia Long :" Kẻ nào muốn nuôi trẻ khác họ về lập tự, cũng như kẻ nào cho con làm con nuôi thừa tự người khác họ, sẽ bị phạt 60 trượng, và đứa trẻ được hoàn về tộc cũ." (xem Philastre, đã dẫn, tr. 367).

Dưới triều Lê, nhà lập pháp nể lệ làng hơn: Phong tục cho kẻ khác họ nối dõi cùng tập quán coi con gái ngang hàng với con trai trong việc thừa kế rất thịnh hành trong dân gian. Luật Hồng Đức cho phép con gái có quyền coi giữ hương hỏa nếu cha mẹ không có con trai (xem Deloustal, La Justice dans L'ancien Annam, tr. 303-305; Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Tập 3, Quốc Dụng Chí, tr. 130-131).

Lẽ dĩ nhiên, lệ cho con gái thừa tự làm các nho gia chính thống công phẫn. Trong Vũ Trung Tùy Bút (đã dẫn, tr. 69), Phạm Đình Hổ (1768-1839) cực lực phản đối tập tục đó, rằng " hợp tề nội ngoại như thế thì loạn mất luân thường". Chắc vì hai ông Vũ Pháp Huy và Đặng Phúc Long đều là nhà nho, nên thấy cần hợp thức hóa sự bà Từ Giảng thừa tự bằng cách để ông Thiện Thể nhập Đặng tộc, nhưng lấy chữ Vũ làm tên đệm; bởi đó lập thành một họ kép (3) truyền cho con cháu, cốt để con cháu khỏi quên gốc tích. Nguồn gốc đó được nhắc nhở trong câu đối treo trong từ đường họ Đặng Vũ:

Nguyên Vũ thị, bách niên tiền, đông thổ Đường An cổ quận;

Cải Đặng tính, tam thế hậu, nam châu Hành Thiện chi từ.

Có nghĩa là:

Gốc họ Vũ, trăm năm trước, quê tại miền đông đất Đường An;

Đổi họ Đặng, ba đời sau, từ đường tại Hành Thiện mạn nam.


Ông Đặng-Vũ Thiện Thể sinh được 6 người con trai làm tổ cho sáu chi họ Đặng-Vũ ngày nay:

1. Đặng-Vũ Ngọc Liễn, tổ chi 1.

2. Đặng-Vũ Phước Đa, tổ chi 2, tuyệt tự sau bốn đời.

3. Đặng-Vũ Trọng Am, tổ chi 3.

4. Đặng-Vũ Xuân Tình, tổ chi 4.

5. Đặng-Vũ Viết Xính, tổ chi 5.

6. Đặng-Vũ Viết Hiền, tổ chi 6, không ro ra sao vì con cháu thiên cư đi nơi khác.

Sau khi gia cư được ổn định, con cháu ông Thiện Thể theo gót tổ tiên bước vào nghiệp sách vở, khoa trường. Ngay từ đời thứ 3, họ Đặng-Vũ đã bắt đầ có người đỗ đạt. Thời nho học, các cụ chỉ đậu cử nhân, không có tiến sĩ. Theo gia truyền, đó không phải vì các cụ kém người, mà chỉ vì hoàn cảnh nghèo túng của gia đình không cho phép các cụ đến tận kinh kỳ thi hội.

Trong cuộc thi đua với các họ khác, đặc biệt với hai họ Nguyễn và Đặng, trong làng về vấn đề học vấn; sĩ tử họ Đặng-Vũ dần dần chiếm ưu thế. Từ 1801 đến 1915, số nho sĩ đậu tú tài trở lên thuộc họ Nguyễn là 91 người, thuộc họ Đặng là 72 người, thuộc họ Đặng-Vũ là 43 người. So với đinh số, tỷ lệ đỗ đạt của họ Đặng Vũ cao hơn cả -- theo đinh số năm 1933, họ Nguyễn có 830 đinh suất, họ Đặng 475 suất, và họ Đặng-Vũ 133 suất.

Nhờ sự ganh đua học hỏi giữa các họ trong làng, chẳng bao lâu Hành Thiện nổi tiếng là một làng văn học vào bậc nhất Việt Nam, như được chứng tỏ trong câu cổ ngữ: Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện -- Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuôc ngoại thành Hải Phòng . Vào đầu thế kỷ XX, Ông Đồ Hành Thiện đã trở thành một nhân vật tượng trưng cho giới nho học trong sách và tiểu thuyết.

Sự tiếp tục học hành của họ Đặng-Vũ sau khi tổ tiên rời Mộ Trạch được các cụ giải thích bởi sự linh ứng không nguôi của tổ Vũ Hồn. Ngay sự họ Đặng đương kém họ Nguyễn về khoa bảng bỗng nhìên phát khoa trội hẳn kể từ cuối thế kỷ XVIII, với bốn tiến sĩ, trong đó có Đặng Xuân Bảng là một học gỉa lớn của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, cũng được các cụ qui cho âm phúc của các bà họ Đặng-Vũ, thường được gả cho người họ Đặng theo gương bà cụ tổ Từ Giảng.

Không tin dị đoan thì có thể bảo rằng họ Đặng đăng khoa nhờ truyền thống giáo dục hướng về sĩ họan. Ngay từ thời ở Mộ Trạch, nếu không làm quan, các cụ họ Vũ thường chọn nghề dạy học và đã đào tạo được rất nhiều nhân tài; vì thế sĩ tử tranh nhau đến thụ giáo. Tất nhiên con cháu các cụ được hưởng trước tiên sự chỉ bảo của các cụ, nên có nhiều hy vọng đỗ đạt hơn người. Tới Hành Thiện cũng sự kiện trên được tiếp diễn: Tiếng tăm Ông Đồ Hành Thiện lan rộng khắp nơi, nên sĩ tử bốn phương tới Hành Thiện cầu học.

Cụ Đặng (-Vũ) Văn Tường, đời 4, chi 5, là một bậc thầy có tiếng: cả bốn người con trai của cụ đều đậu cử nhân, và trong đám học trò thành danh của cụ có hai người làng, là Nguyễn Ngọc Liên, tiến sĩ năm 1889, và Đặng Đức Cường, con rể cụ, cử nhân, sau làm Tổng Đốc Hải Dương.

Nhưng theo các cụ, bậc sĩ phu có học còn phải có hạnh. Cho nên, dù tin vào phong thủy, các cụ không ngớt răn con cháu về điều kiện cốt yếu của sự phát phúc: Tích đức, Hành Thiện, như tên làng thúc dục. Ngay sự đặt tên con là Thiện Thể và Thiện Vàng của tổ Vũ Pháp Huy đã chứng tỏ sữ chuộng đạo đức của dòng họ Đặng Vũ.

Vì trọng nhân nghĩa và lễ giáo, đặt giá trị tinh thần trên quyền lợi vật chất tới mức cực đoan, quan viên họ Đặng-Vũ thường bị coi là gàn dở: Như cụ Đặng Vũ Khải, đời 5, chi 3, còn lấy roi mây đánh em, là cụ Đặng Vũ Bân, đã hơn 60 tuổi, vì tội để con cháu chơi cờ bạc trong dịp Tết; mà cụ em cũng phải khúm núm nằm xuống lãnh hình phạt. Hay như cụ Đặng-Vũ Chiểu, đời 5, chi 5, thà nghèo kiết còn hơn nhận gia tài của nhà vợ.

Từ khi Tây học du nhập Việt Nam, dân Đặng-Vũ đua nhau học hỏi và cũng gạt được nhiều thành qủa tốt đẹp. Nhưng đồng thời nhiều người mải theo tân trào đã quen hẳn bài học đạo đúc của tổ tiên, không chăm lo việc ích quốc, lợi dân, không biết bảo tồn nền nho phong đã giúp dòng họ mở mặt với thiên hạ. Uớc mong họ xu hướng quay về cội nguồn, và nhớ lại những lời dạy dỗ của ông cha ngõ hầu góp công vào việc kiến thiết đất nước.

----------

(1) Khó bảo rằng xã này có từ thời Lý như thấy ghi trong Hành Thiện Xã Chí, vì tên xã dựa vào tên huyện, mà huyện Giao Thủy chỉ được đặt từ thời thuộc Minh, theo Đại Nam Nhất Thống Chí.

(2) Xem Đại Nam Nhất Thống Chí., Tỉnh Nam Định, Sàigòn, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, 1969, tr. 24


(3) Tuy nhiên cũng có một số người họ Đặng-Vũ, vì không rõ chủ ý của tổ Pháp Huy hay vì không muốn biệt lập với bà con họ Đặng, đã bỏ chữ Vũ trong tên họ.

Nguồn Đặng Vũ Phả Ký

read more “Họ Đặng-Vũ và Làng Hành-Thiện”

Bài vè kể chuyện Lễ hội chùa Thần quang

BÀI VÈ KỂ CHUYỆN LỄ HỘI CHÙA THẦN QUANG

(Làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)

Chúc mừng thiên tải vạn niên,
Thanh nhàn kể chuyện thánh tiên hội hè:
Thu nhi tháng chín đã kề,
Xóm làng khấp khởi,các phe reo hò,
Mồng ba,mồng bốn hẹn hò,
Rủ nhau lên tiếng kính cho lòng thành.
Lọc đi lọc lại trong xanh,
Nếp thì nhặt hết tinh thanh mọi bề,
Bánh giày giá ruộng các phe,
Tính cho đủ hết mọi bề mới sang.
Sửa sang đường xá phong quang,
Xa xôi buôn bán về làng hội Ông.
Phướn cao mặt nguyệt đầu rồng,
Ó đen ngậm giải lụa hồng phất phơ,
Chọn ngày hạ thủy,dựng cờ,
Gieo quẻ xin Thánh chọn giờ mở sông.
Ngân vang chín tiếng chuông đồng
Hai mốt chiếc tải đồng lòng hò reo.
Ngày ngày cố sức tập chèo,
Bảo nhau cố sức mà theo giải làng.
Chủ hương chọn những quan sang,
Cụ nào thanh khiết thì dân mới dùng.
Mười hai nghe hiệu trống tùng,
Kén giai phù giá hội cùng phụng nghinh.
Rước lư hương xuống tận đình,
Rợp đường cờ kéo tùng dinh nhạc thiều.
Các dong bày lễ bái triều,
Cầu xin lân nội được điều tiêu hai.
Lắng nghe tai tiếng truyền bài,
Thành tâm phụng thánh ai hoài ngại chi.
Rồng mây gặp hội có khi,
Tranh khôi chiếm bảng tới kỳ vinh hoa?
Lễ hội xin thẻ lui ra,
Theo hầu kiệu thánh nguy nga hương trầm.
Phụng nghinh thánh giá hoàn cung.
Mười ba trống dục lung bung rước đèn.
Mười tư trầu kệ thánh hiền,
Cờ người đấu chí liên miên ba ngày
Mười rằm mới thật vui thay,
Rợp đường cờ kéo gió bay phật phờ.
Nguy nga kiệu chính kiệu hờ,
Kiệu bay nghiêng ngả lên trời xuống âm.
Người người vái lạy thành tâm,
Cầu xin phúc lộc,bách niên hoàn đồng
Lại thêm nhang án,thuyền rồng,
Long đình,tàn lọng,trống thùng nhạc công.
Phụng nghinh thánh giá xuất Đông,
Đi qua ba miếu,vẽ vòng đường ngang.
Ngọn cờ tỏ điệu Tây sang,
Phụng nghinh thánh giá,tam quan ngự tiền,
Chuông ngân,trống dóng,khánh rền,
Bài truyền vào cuộc bơi thuyền khánh tiên.
Trong hồ thuyền cốc dô khoan,
Ngoài sông thuyền trải chờ toan dô hò.
Cờ phất,ống lệnh nổ to,
Mặt sông rộn tiếng dô hò,dô khoan,
Nhấp nhô khăn đỏ,khăn vàng,
Nhịp nhàng mái đẩy diễu hành quanh quanh.
Ra ngoài sông cái bơi nhanh,
Mấy vòng xuôi ngược đua tranh sức tài.
Đường dài đấu sức dẻo dai,
Cậy mũi,bẻ lái qua phao kíp giờ.
Gò Sáu,Dũng Trí,Mom Rô,
Bổ xuôi phất giải,phất cờ giáp phe.
Đi sau,giải trước bắt đè,
Cồng vang,pháo nổ,hả hê reo “hà”.
Thưởng mừng chèo lái phe ta,
Rồi ra khăn áo hề hà lên chùa.
Giải làng,lộc thánh,ơn vua,
Rước về khao thưởng cũng vừa canh ba.
Chuyện vui trong xóm,ngoài nhà,
Mai ngày mãn hội,còn là râm ran.
Hẹn người tháng Chín sang năm.

Đỗ Quang Huyên

Sưu tầm và chỉnh lý


Trích từ Hành Thiện lịch sử và văn hóa (HĐH Hành Thiện tại Hà Nội - 1995)
read more “Bài vè kể chuyện Lễ hội chùa Thần quang”

Hai chùa Keo (bài viết của Nguyễn Trương Quý)

Theo lịch sử thì chùa Keo nguyên ở trên đất Giao Thủy, cạnh sông Cái, có từ năm 1061. Năm 1611, nước sông dâng cao làm ngập khu vực chùa. Người dân vùng Keo dựng hai ngôi chùa mới, một là Keo Trên ở Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình ngày nay và chùa kia là Keo Dưới ở Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định vào khoảng năm 1630. Cả hai ngôi chùa đều thuộc hàng những ngôi chùa lớn nhất Việt Nam.

Chùa Keo Duy Nhất

Đây là ngôi chùa cổ lớn nhất Việt Nam cho đến đầu thế kỷ 21, tính về số gian: 17 tòa, 128 gian trên diện tích 5,8ha. Chùa có kiến trúc cao rộng chứ không thấp, tối như nhiều chùa cổ khác. Vì thế những tòa chính điện to bằng cỡ những tòa đại đình. Chùa cũng có những chạm khắc tinh xảo và giàu sức sống. Chùa nằm ở cạnh đê sông Hồng, xung quanh là ba bốn nhà thờ. Chùa có lớp lang theo lối tiền Phật hậu Thánh, thờ Sư Không Lộ (Nguyễn Minh Không), ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam.


tam-quan-noi-chua-keo

1. Tam quan nội. Chùa có hai tam quan, bên ngoài là một tòa kiểu chữ nhất mái cong không xây tường bao. Tam quan nội có vẻ đẹp bình dị, lại gần thì rất xinh xắn do tỉ lệ cân đối. Sinh viên kiến trúc khi học môn cơ sở kiến trúc có một bài vẽ mặt bên tam quan này. Hai bên tam quan còn có hai cửa ngách xây bằng gạch

cua-tam-quan-keo-vu-thu

2. Cánh cửa tam quan nội. Đây có lẽ là cánh cửa đẹp nhất trong số các cánh cửa kiến trúc cổ Việt Nam. Chủ đề chính chỉ là hai con rồng nhưng những trang trí lửa hóa long, sóng nước và vân mây sinh động làm cho tấm gỗ như gấm. Thêm vào nữa là cánh cửa khá lớn (cao 2m), mặc dù nhìn từ xa thì tòa tam quan không lớn lắm. Cánh cửa này gần đây được đền Đô copy lại làm cửa tam quan mới.


chua-keo-vu-thu

3. Sau tam quan nội là đến một bãi rộng, rồi đến tiền đường. Tòa nhà năm gian hai chái to như cái đình, hai bên là giải vũ. Vẻ nhịp nhàng và hoàn thiện của các tòa nhà khiến chùa Keo trông rất bõ công để thăm viếng.

cham-canh-bia-chua-keo

4. Hai tấm bia ở hai bên tòa tiền đường là hai tấm bia tuyệt đẹp với chạm khắc lộng lẫy cả bốn diện. Đặc biệt, bia đứng trên những cánh sen xếp lớp thay vì rùa.

canh-sen-chan-bia-chua-keo

Trên mỗi cánh sen lại có hoa văn tinh xảo. Thời gian làm mòn đi nhiều nhưng vẫn thấy vẻ tuyệt tác.

nha-tien-te-chua-keo

5. Tòa trung đường lại theo lối không có mái đao mà hai đầu hồi lại có giá kèo hai tầng (gọi là giá roi). Những chống chéo ở đây có lẽ làm cho hệ bảy hiên vuông góc đỡ cứng. Chú ý là ngày xưa dùng đinh sắt có mũ hình bông hoa thị (những cái đinh đóng ván gỗ diềm đầu hồi). Công trình vừa mộc mạc nhưng lại "ăn chơi" - những chỗ "mềm" của kết cấu gỗ đều có trang trí chạm khắc. Trong khi đó, song cửa đơn giản với hàng song đan mau và vách bưng ván lụa âm dương. Vì thế vẻ đẹp có sự tự hào của kẻ biết chơi.

tay-chong-con-son-nha-tien

6. Những cái chống chéo rất công phu, và những tầng tầng lớp lớp khối gỗ kê lên nhau cho thấy dựng được cái mái này là cả một nghệ thuật. Vì những khối gỗ khá to, chứ không chẻ nhỏ như mái của Tàu. Nhìn lại gần mới thấy những song cửa cũng không vuông đơn thuần: ở đoạn giữa, chúng được bào vát lượn góc cho nhỏ lại.

dau-hoi-hau-cung-chua-keo

7. Tòa thiêu hương. Kiến trúc cổ nằm giữa cây xanh nên mang vẻ rất thanh nhàn. Tổ hợp trang trí trên mái nhuần nhuyễn và buông mảng lớn cho diện mái và tường vách gỗ bên dưới.

hien-chua-keo-1

8. Tiếc là không còn lưu đủ ảnh để làm ví dụ, nhưng ở trong chùa có những góc nhỏ xinh thế này. Không hoa mỹ bằng Bút Tháp nhưng có cái vẻ khỏe mạnh của nét đơn giản.

ban-tho-chua-keo

9. Không Lộ thiền sư sinh năm 1065, là Quốc sư nhà Lý. Nhiều nơi thờ, trong đó có đền Lý Triều Quốc Sư ở phố Lý Quốc Sư và chùa Thần Quang, Ngũ Xã, Hà Nội. Chùa Thần Quang này có pho tượng đồng A Di Đà to nhất VN, cao 4m, nặng 12,3 tấn. Làng Ngũ Xã trước đây nổi danh đúc đồng, giờ thường người ta phải về Đồng Xâm, Thái Bình để đúc. Ai nghe bài Nắng ấm quê hương của Vũ Thanh chắc cũng biết câu: Cho anh về quê mình, cùng làm lúa cùng trồng đay, cùng dệt cói cùng đan mây. Tay em chạm vàng, tay em khảm bạc, làm giàu cho quê hương, Thái Bình ta đó, mà lòng anh yêu thương... Làm giàu thật. Đúc chuông bây giờ đang cực đắt hàng. Mỗi quả chuông cao 70cm có giá chừng chục triệu. Còn loại khổng lồ đua nhau lớn nhất VN thì khỏi nói. Nhưng quan trọng là đúc xong, đánh phải kêu.

la-han-chua-keo

10. Cũng tượng La Hán, nhưng ở chùa Keo có vẻ không sôi động lắm. Trông ông kia mới chán đời chứ.

gac-chuong-chua-keo-3

11. Gác chuông chùa Keo được xem như điểm nhấn của quần thể, đóng lại không gian chung. Những kết cấu gỗ chồng rường dưới mái có ảnh hưởng của kiến trúc Trung Quốc, Nhật Bản, nhưng ở đây các đầu dư thưa hơn, tạo thành các cụm. Độ cong của mái đao vẫn là kiểu Việt Nam, cong nhờ tầu mái và ở phần giữa vẫn dốc đều chứ không cong toàn bộ như hai nước kia. Những đầu dư vươn ra cũng tranh thủ uốn cong, làm cho các góc giao nhau như bông hoa nở. Chùa Bối Khê cũng có gian hậu cung kết cấu mái chồng rường giống thế này. Nhưng gác chuông chùa Keo với độ cao của nó thì chưa có chùa nào gây ấn tượng bằng. Thêm nữa, trang trí chạm khắc gỗ rất hoa mỹ mà không sơn phết khiến kiến trúc này tựa như một công trình điêu khắc từ một khối thô mộc - những ai hâm mộ kiến trúc thô mộc và biểu hiện sẽ kết loại này.

gac-chuong-chua-keo-2

gac-chuong-chua-keo-1

12. Hai bức ảnh này chụp hồi năm 2006, khi đó người ta đang sửa. Những công phu thế này phản ánh một đặc điểm của người Việt xưa: những gì đẹp đẽ tài hoa đều chỉ nhỏ xinh và vừa vặn. Tôi khó lòng tin rằng những tính từ mô tả "cao vài trăm trượng tới mây xanh", "tháp ngọc lưu ly, cung vàng điện ngọc san sát" là tả thứ có thực hoặc đẹp hơn thế này. Dễ hiểu bởi vì kết cấu gỗ phụ thuộc cây gỗ, vốn cũng chỉ dựng được những tòa đại đình vài gian hàng ngang là kịch kim, cũng như chiều cao hai ba tầng là hiếm hoi thấy xuất hiện. Thêm nữa, gần như thế kỷ nào cũng có loạn lạc, chiến tranh, con người không thể yên ổn mà làm nổi những gì to lớn hơn cái đã có. Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô là một câu chuyện đáng buồn cho tham vọng của người Việt.

goc-trong-gac-chuong-chua-k

13. Kết cấu gỗ ghép khít vào nhau. Nhưng vì thế mà trong lòng gác chuông khá tối và thấp. Người ta đã trùng tu dùng ngói chiếu có hình ngôi sao - là ngói bây giờ. Sao không dùng cái ngói nào có hình hoa gì mà lại là ngôi sao, tân kỳ thế?

ben-trong-gac-chuong

14. Mấy người đi cùng thắc mắc: đã mất công làm gác chuông đẹp thế mà sao bên trong lại chật, thấp và cầu thang khó leo thế. Chú ý là đến con kê thanh xà treo chuông ở dưới cũng chạm hoa văn. Rất trau chuốt.

chuong-chua-keo

15. Gác có hai quả chuông. Qủa chuông to và dáng hơi khum này có hẳn một bài minh dài. Chuông cao phải đến 2,5m (so sánh với chân người mặc quần bò bên dưới). chiem-nguong-nghe-thuat

16. Trên tầng 3. Rất thấp nên chỉ có thể ngồi khom khom. Qủa chuông này nhỏ hơn.


Phía sau gác chuông, là khu vực nhà Tổ và nơi ở của sư sãi. Những công trình này mới xây, hoàn toàn không có gì đáng kể so với những gì phía trước. (...)

Chùa Keo Hành Thiện


Chùa Keo Hành Thiện có lẽ làm sau chùa Keo Duy Nhất một chút. Chùa chỉ ít hơn ngôi chùa kia số gian và số tòa - 13 tòa và 121 gian. Chùa còn nguyên vẹn và bề thế, mặc dù có cấu trúc không gian giống chùa bên Thái Bình nhưng có những nét khác biệt về kiến trúc. Hai ngôi chùa nếu tính theo đường chim bay chỉ cách nhau chừng 2-3km ở hai bờ sông Hồng.

voi-da-keo-hanh-thien

1. Trước tam quan ngoại là đôi voi đá. Con voi có cả ngai, nhưng trông giống voi truyện tranh của họa sĩ Tạ Thúc Bình hay Mai Long ngày xưa, kiểu voi thiếu nhi biết căm thù giặc và yêu nước. Tiếc là cặp ngà đã bị gãy. Những hoa văn trên ngai và diềm cổ rất đẹp, quả chuông còn được chạm lệch. Chú ý chân voi khía hình cánh hoa!

bia-da-keo-hanh-thien

2. Con rùa đội bia thì lại tả thực quá. Cảm giác ở đây rất thanh bình, mùi rơm rạ và gió đồng thổi hây hây.

tam-quan-keo-hanh-thien

3. Gác chuông này theo lối chồng diêm, đóng vai trò của tam quan nội. Người ta giữ được chất lượng rất tốt, chỉ ghét cái cột điện trồng ngay cạnh mái đao. Hồ bán nguyệt thoáng sạch chứ không đục lờ như những chùa Bắc Ninh đã đi.

tam-quan-keo-hanh-thien-2

Cái màu ngói và dáng đầu đao thật đẹp. Đây là một ngôi chùa gây ấn tượng hoàn hảo cho mình.

tam-quan-keo-hanh-thien-3

4. Buổi chiều bình yên của làng quê Bắc Bộ. Hi vọng người ta không xây những ngôi nhà cao tầng xung quanh, để tôn được hình ảnh kiến trúc này.

tam-quan-chua-keo-hanh-thie

5. Thật buồn cười vì mãi vẫn chưa đi khỏi cái tam quan, chỉ vì nó có nhiều góc hay ho.

tran-bia-keo-hanh-thien

6. Ở tầng dưới là hai tấm bia. Trán trán bia có chạm hai hình Quan Thế Âm (hay tiên) cưỡi rồng chầu mặt nguyệt.

bia-co-mai-hanh-thien

7. Tấm bia bên kia thì có mũ với chạm khắc rất lộng lẫy. Đặc biệt những dây hoa cúc ở hai bên diềm thật tinh vi. Tay người khắc như múa vậy, vì những nét ở đây mảnh và mịn như dệt lụa.

vi-keo-tam-quan-hanh-thien

8. Tiếc là tấm ảnh hơi nhòe, nhưng để thấy được kết cấu chồng rường trên nóc, đặc trưng của thời Hậu Lê. Những con kê và đầu xà cũng uốn lượn, dùng chính cả khúc gỗ làm chi tiết trang trí trong tổng thể luôn. Giống như một ổ rồng đang quấn quýt đỡ mái.

gac-chuong-keo-hanh-thien

9. Bên này treo chuông, bên kia là khánh. Gác chuông rộng rãi và phong quang, thể hiện đẳng cấp của ngôi chùa đặc biệt.

khanh-keo-hanh-thien
Cái khánh ít trang trí nhưng khuôn nét cực sắc sảo.

tien-duong-chua-keo

10. Tòa tiền đường không hiểu sao lại có đường giọt gianh hơi vồng lên ở giữa. Có vẻ như thời sau xây thêm hai cổng ngách vì kiến trúc mái vữa bằng ngói ống là đặc trưng của thời Nguyễn. Những cái lỗ trên các cối đá giữa sân là nơi cắm lọng cho ngày lễ hội.

chan-cot-keo-hanh-thien

11. Gạch hoa đời sau viền theo đá tảng chân cột. Tuy đơn giản nhưng cho thấy nếu dụng công, hoàn toàn chấp nhận được. Viên gạch hoa cũng là kiểu cổ, và đường viền cũng rất khéo.

thieu-huong-keo-hanh-thien

12. Tòa thứ nhất của khu tam bảo. Ở chùa này, cụm tam bảo chữ công có lối vào lại từ ống muống ở giữa. Nên tượng thờ sẽ quay lưng về mặt trước này. Tỉ lệ của tòa này cân đối, xinh xắn quá. Mái cong bốn góc có cái hay là với số gian ít hay nhiều đều hài hòa, có lẽ là vì độ thấp của nó, không vươn cao quá, cũng như màu sắc trầm của ngói mũi hài.

cham-tro-keo-hanh-thien

13. Thật tuyệt đẹp! Không hiểu sao mình thực sự sung sướng (cảm động nữa) khi tận mắt nhìn thấy những chạm trổ này. Như thể người ta vẽ một bức tranh bằng thớ gỗ vậy. Mà nhất là không có màu gì ngoài màu gỗ (có quét dầu chống mối). Tỉ lệ hoàn hảo, đặc rỗng và to nhỏ thật kinh điển.

vi-keo-keo-hanh-thien-3
14. Còn đây là những chỗ tuy hơi phô trương nhưng cũng thật đẹp.

vi-keo-keo-hanh-thien-2

vi-keo-keo-hanh-thien

Người ta sơn lên khá cầu kỳ bằng sơn ta, khói nhang đã làm xỉn đi nhiều. Không biết có đồ án hay không, chứ phải nói là tâm thế người thực hiện phải rất sáng sủa để khớp tất cả lại với nhau.

ca-go-keo-hanh-thien

15. Con cá làm mõ đã bị mục, thật tiếc. Trên mình nó còn những chi tiết chạm điệu nghệ.

Chùa Keo Hành Thiện có lẽ ít người đến hơn Duy Nhất. Nếu đến thì nên tới vào mồng một hoặc rằm, thì có thể vào trong các tòa để xem và chụp tượng. Khi tôi đến thì chỉ được xem loanh quanh bên ngoài và ngó bên trong chút ít.

Nguồn blog Nguyễn Trương Quý

read more “Hai chùa Keo (bài viết của Nguyễn Trương Quý)”